NộI Dung
Sau khi phẫu thuật, bạn hoặc người thân của bạn có thể cần phương pháp điều trị thở và các loại liệu pháp hô hấp khác để ngăn ngừa biến chứng. Điều này có thể bao gồm từ một phương pháp điều trị duy nhất với ống hít đến chăm sóc cấp độ ICU cho những người ốm yếu nhất, những người cần máy thở để hỗ trợ thở cho đến khi họ có thể tự thở.Những gì các nhà trị liệu hô hấp làm
Các phương pháp điều trị hô hấp này và nhiều phương pháp điều trị khác được cung cấp bởi các bác sĩ trị liệu hô hấp (RT), nhân viên y tế có trình độ đại học, những người được đào tạo để chăm sóc phổi và thực hiện kế hoạch chăm sóc cùng với những người còn lại trong nhóm chăm sóc sức khỏe. Họ có thể làm việc với bác sĩ cung cấp dịch vụ chăm sóc trong bệnh viện, bác sĩ phổi-bác sĩ chuyên điều trị các vấn đề về phổi hoặc họ có thể làm việc trong một cơ sở chăm sóc nhiều bệnh nhân thuộc các loại khác nhau.
Nhiệm vụ công việc khác nhau giữa các cơ sở. Ở một số bệnh viện, bác sĩ trị liệu hô hấp có thể cung cấp mọi dịch vụ chăm sóc hô hấp, trong khi ở những bệnh viện khác, họ có thể chia sẻ khối lượng công việc đồng đều với nhân viên điều dưỡng. Thông thường, RT cung cấp các loại thuốc dạng hít như phương pháp điều trị bằng máy phun sương và phương pháp điều trị bằng máy phun sương và làm việc chặt chẽ với nhân viên điều dưỡng vì công việc của họ có thể chồng chéo.
Lý do Cần Liệu pháp Hô hấp
Bất kỳ cá nhân nào có nguy cơ phát triển biến chứng hô hấp, hoặc người đã phát triển một vấn đề nghiêm trọng về phổi, sẽ được điều trị bởi một nhà trị liệu hô hấp tại bệnh viện. Nói chung, bệnh nhân phẫu thuật có nguy cơ mắc các vấn đề về hô hấp cao hơn so với người bình thường. Nằm máy thở trong khi phẫu thuật và quá trình hồi phục sau phẫu thuật làm tăng nguy cơ bị nhiễm trùng phổi và các vấn đề khác.
Hầu hết các bệnh nhân phẫu thuật ở lại bệnh viện từ một đêm trở lên sau khi phẫu thuật có thể được điều trị bằng phương pháp thở nào đó trong thời gian họ ở lại.
Loại phổ biến
- Liệu pháp oxy: Nhiều bệnh nhân cần bổ sung oxy trong vài giờ hoặc thậm chí vài ngày sau phẫu thuật. Oxy này có thể được cung cấp qua ống thông mũi, mặt nạ hoặc thậm chí qua máy thở khi cần thiết. Lượng oxy thường được điều chỉnh bởi các nhà trị liệu hô hấp.
- Người hít phải: Đây là những loại thuốc được hít vào, mỗi lần “xịt”. Chúng thường được sử dụng bởi những người bị bệnh hen suyễn và được sử dụng để mở đường thở, giảm tiết dịch và viêm, đồng thời giảm hoặc ngăn ngừa các triệu chứng của bệnh hen suyễn.
- Điều trị bằng máy phun sương: Đây là một loại thuốc dạng khí dung được hít trong vài phút hoặc thậm chí một giờ. Nó giúp mở đường thở, giảm kích ứng và có thể giảm viêm. Phương pháp điều trị bằng máy phun sương cũng có thể được sử dụng để giúp cắt cơn hen suyễn.
- CPAP và BiPAP: Đây là những máy giúp bệnh nhân sử dụng oxy tốt hơn bằng cách giữ mở đường thở. Bệnh nhân đeo mặt nạ giúp ngăn ngừa các cơn ngưng thở, một tình trạng xảy ra khi bệnh nhân ngừng thở trong thời gian ngắn khi đang ngủ. CPAP và BiPAP cũng có thể được sử dụng cho những bệnh nhân bị bệnh phổi nặng, những người tự thở không đủ nhưng không bị bệnh đến mức họ cần phải thở máy. Máy BiPAP thường được sử dụng cho những bệnh nhân bị bệnh phổi mãn tính, vì nó có thể giúp giảm lượng carbon dioxide có thể tích tụ trong cơ thể.
- Ho và thở sâu: Các nhà trị liệu hô hấp dạy kỹ thuật này cho những bệnh nhân gặp khó khăn trong việc loại bỏ dịch tiết ra khỏi phổi. Bệnh nhân liên tục hít thở rất sâu sau đó ho nhiều.
- Làm thế nào để ho: Những người vừa mới phẫu thuật cần phải ho, nhưng ho mạnh sẽ làm căng các vết mổ, đặc biệt là vết mổ ở bụng. Học cách ho đúng cách sau khi phẫu thuật, bằng cách sử dụng nẹp, có thể làm cho cơn ho hiệu quả hơn và ít đau hơn.
- Phép đo xoắn ốc khuyến khích: Đây là một công cụ yêu cầu bệnh nhân hít vào mạnh, giúp mở đường thở và ngăn ngừa xẹp phổi.
- Hút: Đối với những bệnh nhân không thể loại bỏ dịch tiết ra khỏi đường thở bằng cách ho, có thể tiến hành hút dịch. Điều này thường được thực hiện bằng cách gắn một ống nhỏ vào thiết bị hút và đưa nó vào đường thở. Điều này có thể được thực hiện cho những bệnh nhân đang tự thở hoặc đang thở máy.
- Quản lý quạt thông gió: Đối với những bệnh nhân không thể tự thở, có thể cần đến máy thở. Đối với những bệnh nhân phải thở máy, các bác sĩ chuyên khoa hô hấp sẽ tham gia rất nhiều vào việc chăm sóc họ. Các RTs, cùng với các y tá, chịu trách nhiệm duy trì máy thở và đường ống gắn bệnh nhân vào máy, cung cấp các phương pháp điều trị thở cho bệnh nhân cũng như hút và chăm sóc miệng.
- Kiểm tra chức năng phổi: Đây là những xét nghiệm được thực hiện để xác định xem phổi của bệnh nhân đang hoạt động tốt như thế nào. Các xét nghiệm này thường do bác sĩ hoặc nhà cung cấp khác chỉ định nhưng được thực hiện bởi RT.
- Khí máu động mạch: Đây là một xét nghiệm được thực hiện trên máu lấy từ động mạch có thể xác định xem bệnh nhân có nhận đủ oxy hay không, mức độ thở của họ và liệu họ có cần trợ giúp thở thêm từ BiPAP, CPAP hoặc máy thở hay không. Các bác sĩ điều trị và y tá về hô hấp thường chịu trách nhiệm lấy máu và thường đóng vai trò xác định xem có cần thiết phải can thiệp hay không.
- Đặt nội khí quản: Ở nhiều bệnh viện và các cơ sở khác, bác sĩ điều trị hô hấp có nhiệm vụ đặt ống nội khí quản, ống thở cho phép bệnh nhân được đặt trên máy thở. Các nhà cung cấp thuốc gây mê cũng thực hiện nhiệm vụ này cho những bệnh nhân đang phẫu thuật bằng phương pháp gây mê toàn thân.
- Giáo dục: Nhiều bệnh nhân cần thông tin về quá trình bệnh, quá trình cai thuốc lá và các loại thuốc họ được kê đơn. Các nhà trị liệu hô hấp thường chịu trách nhiệm đảm bảo bệnh nhân biết cách sử dụng máy phun sương hoặc ống hít, khuyến khích các hành vi lành mạnh và các hình thức giáo dục khác.