NộI Dung
- Thuật ngữ của "Phân suất tống máu"
- Tại sao bệnh tim đôi khi gây giảm phân suất tống máu?
- Làm thế nào để đo phân suất tống máu?
- Làm thế nào để bác sĩ sử dụng phép đo phân suất tống máu?
Nếu tâm thất đẩy ra 60% lượng máu mà nó giữ được vào đầu mỗi nhịp tim, thì phân suất tống máu của nó là 60% (đôi khi được biểu thị dưới dạng số thập phân, chẳng hạn như 0,6).
Phân suất tống máu được sử dụng rất phổ biến trong y tế vì một số lý do. Nó rất dễ dàng để đo lường không xâm lấn; nó có thể tái tạo (vì vậy bạn sẽ nhận được cùng một câu trả lời nếu lặp lại bài kiểm tra) và nó có thể được sử dụng theo thời gian để đánh giá những thay đổi trong chức năng tim. Và quan trọng nhất, phân suất tống máu tiết lộ thông tin quan trọng về chức năng của tim bạn.
Thông thường, tâm thất trái đẩy ra 55% thể tích máu trở lên với mỗi nhịp đập, do đó phân suất tống máu "bình thường" là 55% (0,55) hoặc cao hơn. Phân suất tống máu từ 40 - 50% được coi là “dưới mức bình thường”. Những người bị suy tim do bệnh cơ tim thường có phân suất tống máu thấp hơn 40%.
Thuật ngữ của "Phân suất tống máu"
Điều quan trọng cần lưu ý là khi bác sĩ nói từ “phân suất tống máu”, họ đang đề cập đến phân suất tống máu của tâm thất trái. Đúng hơn đây sẽ được gọi là “phân suất tống máu thất trái” hoặc “LVEF” và đôi khi bạn có thể nhìn thấy hoặc nghe thấy thuật ngữ này.
Tâm thất phải cũng có phân suất tống máu riêng của nó (“phân suất tống máu thất phải”, hay RVEF). Tuy nhiên, RVEF hiếm khi được các bác sĩ đề cập hoặc nói đến, một phần vì nó khó đo hơn nhiều so với LVEF, và một phần vì biết RVEF chính xác thường không đặc biệt hữu ích trong việc đánh giá lâm sàng chức năng tim.
Vì vậy, khi bác sĩ của bạn nói "phân suất tống máu", họ đang đề cập đến LVEF.
Tại sao bệnh tim đôi khi gây giảm phân suất tống máu?
Khi cơ tim trở nên yếu, các sợi cơ không có khả năng co bóp hoàn toàn. Đó là, sự ngắn lại của các sợi cơ xảy ra với sự co cơ bị giảm bớt. Điều này có nghĩa là, trừ khi có sự bù đắp cho chức năng cơ kém, lượng máu được bơm vào mỗi nhịp tim (“thể tích nhát bóp ”) Sẽ giảm dần.
Để bù đắp cho sự thiếu sót này, tim giãn ra - nó to ra - cho phép nó chứa nhiều máu hơn. Sự giãn nở này cho phép duy trì khối lượng đột quỵ bình thường (hoặc gần bình thường), mặc dù sự rút ngắn sợi cơ giảm. Do sự giãn nở này, trong khi tỷ lệ máu được đẩy ra trong mỗi nhịp tim bị giảm đi (tức là phân suất tống máu giảm), thể tích đột quỵ vẫn có xu hướng duy trì ở mức gần như bình thường.
Ví dụ, hãy xem xét một người có tâm thất trái chứa 100 ccs máu và có phân suất tống máu là 50%. Người đó có thể tích hành trình là 50cc. Nếu sau đó phân suất tống máu của anh ấy giảm xuống còn 40%, tim của anh ấy sẽ có xu hướng giãn ra đủ để vẫn cho phép thể tích hành trình 50cc với mỗi nhịp tim - nghĩa là một sự giãn nở đủ để chứa 125 ccs.
Đây là lý do tại sao có một trái tim to được coi là một vấn đề. Trong khi sự to ra là một cơ chế bù trừ giúp ngăn ngừa các triệu chứng của suy tim (bằng cách duy trì cung lượng tim bình thường càng lâu càng tốt), thực tế là tim bị giãn ra cho thấy cơ tim đang bị suy yếu.
Một tên gọi khác của sự giãn nở bù trừ của tim xảy ra với bệnh cơ tim là "tái tạo".
Làm thế nào để đo phân suất tống máu?
Phân suất tống máu thường được đo bằng siêu âm tim, nhưng nó cũng có thể được đo bằng cách quét MUGA hoặc trong quá trình thông tim. Quét MUGA thường là phương pháp đo phân suất phóng xạ chính xác và có thể lặp lại được, và nó thường được sử dụng trong các tình huống cần các phép đo lặp lại, chính xác; ví dụ, khi đang sử dụng hóa trị liệu có thể gây độc cho cơ tim - phổ biến nhất là doxorubicin (Adriamycin). Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, siêu âm tim là cách hiệu quả nhất để theo dõi phân suất tống máu của một người theo thời gian.
Làm thế nào để bác sĩ sử dụng phép đo phân suất tống máu?
Phân suất tống máu hữu ích như một thước đo sức mạnh tổng thể của tim. Phân suất tống máu càng thấp, cơ tim càng yếu (vì tim cần phải giãn nhiều hơn để duy trì thể tích đột quỵ do tim). Nếu phân suất tống máu giảm, điều đó thường có nghĩa là cơ tim đang trở nên yếu hơn. Phân suất tống máu tăng thường có nghĩa là sức mạnh cơ tim đang được cải thiện.
Các bác sĩ sử dụng phép đo phân suất tống máu để chẩn đoán bệnh cơ tim, để đánh giá hiệu quả của liệu pháp y tế trong việc ổn định hoặc cải thiện tình trạng suy tim và quyết định phương pháp điều trị tốt nhất cho bệnh suy tim.