Đồng nhiễm viêm gan ở người nhiễm HIV

Posted on
Tác Giả: Judy Howell
Ngày Sáng TạO: 2 Tháng BảY 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 15 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Đồng nhiễm viêm gan ở người nhiễm HIV - ThuốC
Đồng nhiễm viêm gan ở người nhiễm HIV - ThuốC

NộI Dung

Viêm gan là tình trạng gan bị viêm. Tình trạng viêm có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm thuốc, vi rút, tiếp xúc với hóa chất, chất độc từ môi trường, rối loạn tự miễn dịch và sử dụng rượu. Trong bối cảnh của HIV, có một tỷ lệ đồng nhiễm cao với một số loại viêm gan siêu vi, đặc biệt là viêm gan C (HCV). Trên thực tế, nghiên cứu dịch tễ học cho thấy có tới 30% người Mỹ nhiễm HIV cũng có thể bị nhiễm HCV.

Với những số liệu thống kê này, điều quan trọng là phải hiểu các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh viêm gan vi rút, cũng như các loại vi rút gây ra bệnh.

Các giai đoạn của nhiễm trùng viêm gan

Viêm gan siêu vi có thể được phân loại rộng rãi theo giai đoạn nhiễm trùng.

Nhiễm trùng cấp tính thường xảy ra tại hoặc gần thời điểm tiếp xúc với vi rút. Sự khởi phát của các triệu chứng có thể đột ngột hoặc từ từ nhưng thường chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, thường tự khỏi trong khoảng thời gian hai tháng. Trong giai đoạn này, tổn thương gan thường nhẹ bằng chứng là gan bị sẹo (xơ hóa). Chức năng gan thường không bị cản trở và các triệu chứng, nếu có, hiếm khi gây tử vong. Trong một số trường hợp, nhiễm trùng cấp tính có thể tự khỏi, không để lại dấu vết của vi rút hoặc tổn thương.


Nhiễm trùng mạn tínhlà điều đó tồn tại trong một thời gian dài. Các triệu chứng ở phần đầu của giai đoạn mãn tính có thể không đặc hiệu hoặc không tồn tại mặc dù thực tế là quá trình xơ hóa có thể đang tiến triển trong gan. Trong giai đoạn này, nhiễm trùng có thể được mô tả là mãn tính dai dẳng (với các triệu chứng phát triển chậm và nhẹ) hoặc cấp tính mãn tính (khi các triệu chứng nghiêm trọng hơn).

Trong số những người bị viêm gan mãn tính không được điều trị, sẽ có nguy cơ bị xơ gan cao hơn, một tình trạng mà sẹo ở gan lan rộng đến mức cản trở chức năng của gan (xơ gan còn bù) hoặc ngừng hoàn toàn (xơ gan mất bù).

Các biểu hiện giai đoạn sau khác của nhiễm trùng mãn tính bao gồm ung thư biểu mô tế bào gan, một dạng ung thư gan đe dọa tính mạng có thể phải ghép gan.

Dấu hiệu và triệu chứng

Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh viêm gan có thể khác nhau và phần lớn các trường hợp có thể không có bất kỳ triệu chứng nào. Trên thực tế, nhiều trường hợp nhiễm trùng sẽ tự khỏi mà người bệnh không biết rằng đã xảy ra nhiễm trùng.


Trong số những người có các triệu chứng, dấu hiệu phổ biến nhất của nhiễm trùng cấp tính bao gồm:

  • Vàng da (vàng mắt và da)
  • Choluria (nước tiểu sẫm màu)
  • Sốt
  • Mệt mỏi
  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Đau bụng
  • Đau khớp (đau khớp)
  • Đau cơ (đau cơ)

Trong giai đoạn nhiễm trùng mãn tính, các triệu chứng có thể trở nên rõ ràng hơn, mặc dù hiếm khi mất khả năng lao động. Trong nhiều trường hợp, chúng rất khó để chỉ ra rối loạn chức năng gan.

Dấu hiệu chung của Nhiễm trùng mạn tính bao gồm:

  • Cảm giác ngứa ran hoặc bỏng rát bất thường (dị cảm)
  • Cảm giác “kim châm” khó chịu (bệnh thần kinh ngoại biên)
  • Ngứa da (ngứa)
  • Các vùng phát ban gồ ghề, gồ ghề (mày đay)
  • Khô mắt kèm theo khô miệng (hội chứng Sicca)

Chỉ khi gan bị xơ gan và suy giảm chức năng thì các triệu chứng mới trở nên biểu hiện của bệnh gan.


Các dấu hiệu và triệu chứng của xơ gan còn bù bao gồm:

  • Gân nhện (nhện nevi), chủ yếu trên thân và mặt
  • Ngứa da (ngứa)
  • Đỏ trên lòng bàn tay (ban đỏ lòng bàn tay)
  • Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu bất thường (chảy máu tĩnh mạch)
  • Sự tích tụ chất lỏng ở mắt cá chân và bàn chân (phù nề)
  • Khả năng tập trung và trí nhớ kém
  • Chán ăn (biếng ăn)
  • Giảm cân
  • Thu nhỏ tinh hoàn (teo tinh hoàn)
  • Rối loạn cương dương hoặc mất ham muốn tình dục
  • Không dung nạp rượu

Xơ gan mất bù và ung thư biểu mô tế bào gan đều được xếp vào nhóm bệnh gan giai đoạn cuối.

Các loại viêm gan siêu vi

Hiện nay, có bảy loại vi rút liên quan đến nhiễm trùng viêm gan, được ký hiệu bằng các chữ cái A đến G. Phương thức lây truyền, phân bố địa lý và biểu hiện của chúng có thể khác nhau, cũng như các tùy chọn có sẵn để ngăn ngừa hoặc điều trị nhiễm trùng.

Bảy loại virus là:

  • Viêm gan A (HAV), chính thức được gọi là viêm gan truyền nhiễm, luôn cấp tính và không bao giờ trở thành mãn tính. HAV lây truyền khi tiếp xúc với phân bị nhiễm bệnh hoặc thức ăn hoặc nước bị nhiễm phân.Nhiễm HAV thường là kết quả của việc thực hành rửa tay kém giữa những người chế biến thực phẩm. Thuốc chủng ngừa viêm gan A có sẵn để ngăn ngừa nhiễm trùng, được tiêm trong một loạt các mũi tiêm.
  • Viêm gan B (HBV), chính thức được gọi là viêm gan huyết thanh, lây truyền qua quan hệ tình dục, nước bọt, dùng chung kim tiêm bị ô nhiễm và tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh. HBV thường sẽ tiến triển thành viêm gan mãn tính mà không có dấu hiệu của viêm gan hoạt động. Nguy cơ mắc bệnh viêm gan B có thể được giảm bớt khi dùng vắc xin viêm gan B, trong khi vắc xin Twinrix có thể bảo vệ khỏi cả HAV và HBV.
  • Viêm gan C (HCV) lây truyền chủ yếu do sử dụng chung bơm kim tiêm bị ô nhiễm, nhưng cũng có thể truyền từ mẹ sang con khi mang thai và ít phổ biến hơn là qua quan hệ tình dục. HCV có thể tự khỏi 40% số người bị nhiễm mà không có bất kỳ dấu hiệu triệu chứng nào. Những người khác sẽ tiến triển thành nhiễm trùng mãn tính có thể không bị phát hiện trong nhiều năm. Mặc dù không có vắc-xin phòng ngừa viêm gan C, nhưng có những thuốc kháng vi-rút tác dụng trực tiếp mạnh mẽ (DAA) hiện có thể mang lại tỷ lệ chữa khỏi lên đến 99% ở một số quần thể. CDC hiện khuyến cáo tất cả những người sinh từ năm 1945 đến năm 1965 nên xét nghiệm viêm gan C.
  • Viêm gan D (HDV) là một dạng viêm gan siêu vi chỉ có thể tái tạo bằng cách gắn vào HBV. Như vậy, nó có thể đi kèm với nhiễm HBV nhưng không tự biểu hiện.
  • Viêm gan E (HEV) tương tự như HAV và tương tự lây truyền qua thức ăn và nước bị ô nhiễm hoặc tiếp xúc với phân bị nhiễm bệnh. Từng được cho là hiếm gặp, việc gia tăng du lịch quốc tế đã khiến một số chuyên gia ước tính rằng có tới 20% người Mỹ có thể bị nhiễm bệnh.
  • Viêm gan F (HFV) là một loại virus theo lý thuyết mà một số người tin rằng có thể gây ra bệnh viêm gan. Mặc dù có một số trường hợp lây nhiễm tiềm ẩn trong những năm 1990, vẫn chưa có bằng chứng xác thực về sự tồn tại của virus.
  • Viêm gan G (HGV) thường xuất hiện ở sự kết hợp với viêm gan A, B hoặc C.

Một lời từ rất tốt

Trong số bảy loại vi rút, viêm gan B và viêm gan C đều gây ra những rủi ro nghiêm trọng cho người nhiễm HIV, làm biến chứng bệnh đã trở thành một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng. May mắn thay, trong những năm gần đây, đã có những tiến bộ lớn trong phương pháp điều trị có thể làm chậm đáng kể tốc độ tổn thương gan hoặc tiêu diệt hoàn toàn sự lây nhiễm virus.

Điều này đặc biệt đúng với bệnh viêm gan C, trong đó các loại thuốc như Harvoni và Mavyret mang lại tỷ lệ chữa khỏi lên tới 99% ở những người đồng nhiễm HIV.

Vì vậy, điều quan trọng là phải thảo luận về việc tầm soát viêm gan vi rút với bác sĩ của bạn và các lựa chọn điều trị hiện có nếu bạn có kết quả dương tính với viêm gan B hoặc C.