NộI Dung
Hiện không có cách chữa khỏi bệnh viêm khớp vảy nến (PsA). Điều trị bằng thuốc đối với bệnh viêm khớp vảy nến (PsA) tập trung vào việc kiểm soát tình trạng viêm để ngăn ngừa tổn thương và tàn tật ở khớp và bao gồm thuốc chống viêm không steroid (NSAIDS), các loại thuốc chống thấp khớp khác nhau (DMARD), biosimilars và corticosteroid.Viêm khớp vẩy nến là một loại viêm khớp viêm ảnh hưởng đến những người bị bệnh vẩy nến, một tình trạng viêm da. Bệnh vẩy nến làm tăng tốc độ phát triển của tế bào da, khiến chúng tích tụ trên bề mặt da. Các triệu chứng của PsA bao gồm đau khớp, cứng khớp và sưng tấy, cùng với các tổn thương da liên quan đến bệnh vẩy nến.
Mục tiêu của điều trị PsA là cải thiện các triệu chứng về da và khớp. Có nhiều lựa chọn thuốc để điều trị có thể bao gồm một hoặc nhiều liệu pháp điều trị bằng thuốc sau đây.
Hướng dẫn thảo luận của bác sĩ về bệnh viêm khớp vẩy nến
Nhận hướng dẫn có thể in của chúng tôi cho cuộc hẹn tiếp theo của bác sĩ để giúp bạn đặt câu hỏi phù hợp.
tải PDF
NSAID
Thuốc chống viêm không steroid (NSAID) là thuốc giảm đau và với liều lượng lớn hơn, chúng có thể làm giảm viêm. NSAID có hiệu quả đối với những người có PsA nhẹ.
Một số NSAID có bán không cần kê đơn (OTC), chẳng hạn như Advil và Motrin, trong khi những thuốc khác yêu cầu kê đơn. Các chất ức chế Cox-2 thường được kê đơn cho các bệnh lý kéo dài, bao gồm cả PsA, vì chúng được cho là an toàn hơn đối với dạ dày. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy không có sự khác biệt về tác dụng phụ trên dạ dày giữa NSAID và chất ức chế COX-2.
Mặc dù hầu hết mọi người có thể dung nạp NSAID nhưng không phải là không có tác dụng phụ, bao gồm:
- Kích ứng dạ dày
- Vấn đề về tim
- Tổn thương gan và thận
DMARD truyền thống
Các loại thuốc điều trị bệnh lý truyền thống (DMARD) có thể giúp làm chậm hoặc thậm chí ngăn chặn quá trình viêm, nếu không sẽ làm hỏng khớp và cuối cùng dẫn đến tàn tật.
DMARDs truyền thống bao gồm:
- Methotrexate
- Sulfasalazine
- Leflunomide
- Thuốc trị sốt rét, chẳng hạn như Plaquenil (hydroxychloroquine).
Những loại thuốc này còn được gọi là thuốc ức chế miễn dịch vì chúng ngăn chặn hoặc làm giảm sức mạnh của hệ thống miễn dịch.
Các tác dụng phụ phổ biến nhất của DMARDs truyền thống bao gồm:
- Phát ban da
- Rụng tóc tạm thời
- Các triệu chứng tiêu hóa, bao gồm buồn nôn, tiêu chảy và đau bụng
- Giảm cân
- Tổn thương gan
DMARD sinh học
DMARD sinh học (sinh học) được sử dụng cho PsA từ trung bình đến nặng khi các liệu pháp khác không có tác dụng. Những loại thuốc này còn được gọi là chất ức chế TNF vì chúng ngăn chặn một chất gọi là yếu tố hoại tử khối u (TNF). Quá nhiều TNF dẫn đến viêm.
DMARD sinh học rất đắt tiền, vì vậy bác sĩ sẽ không kê đơn cho đến khi các loại thuốc khác không giúp cải thiện các triệu chứng.
Sinh học được sử dụng để điều trị PsA bao gồm:
- Cimzia (certolizumab pegol)
- Cosentyx (secukinumab)
- Enbrel (etanercept)
- Humira (adalimumab)
- Orencia (abatacept)
- Remicade (infliximab)
- Simponi (golimumab)
Tác dụng phụ của những loại thuốc này bao gồm:
- Vết tiêm đau và bầm tím
- Tăng nguy cơ nhiễm trùng
- Buồn nôn
- Bệnh tiêu chảy
Biosimilars
Biosimilars là liệu pháp sinh học rất giống với các loại thuốc sinh học đã được phê duyệt. Giống như DMARD sinh học, chúng có thể điều chỉnh hoặc thậm chí làm giảm phản ứng viêm. Mặc dù rẻ hơn DMARD sinh học nhưng chúng không phải là thuốc gốc của những loại thuốc đó. Hơn nữa, giống như sinh học, chúng phải trải qua quá trình kiểm tra nghiêm ngặt của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA).
Một số biosimilars hiện được sử dụng trong điều trị PsA bao gồm:
- Amjevita (adalimumab-atto), tương tự như Humira
- Erelzi (etanercept-szzs), tương tự như Enbrel
- Inflectra (infliximab-dyyb), tương tự như Remicade
Tác dụng phụ của biosimilars bao gồm:
- Các triệu chứng giống như cúm
- Đau đầu
- Đau bụng
- Phản ứng tại chỗ tiêm
- Suy hô hấp cấp
DMARD dành riêng cho mục tiêu
Hiện tại, DMARDs chỉ dành riêng cho mục tiêu có sẵn là chất ức chế Janus kinase (JAK). JAK là một cytokine (chất truyền tin hóa học) mà các nhà nghiên cứu tin rằng có vai trò gây viêm. Trong PsA và các tình trạng tương tự, chất ức chế JAK có thể làm giảm phản ứng viêm và ngăn chặn tổn thương khớp do hậu quả của viêm.
DMARDs dành riêng cho mục tiêu không phải là liệu pháp đầu tay cho PsA. Những loại thuốc này được kê đơn khi một người đã thử dùng DMARDs truyền thống và sinh học và không nhận được đủ phản ứng điều trị.
Hiện tại, chỉ có hai loại thuốc ức chế JAK có sẵn để điều trị PsA:
- Taltz (ixekizumab)
- Xeljanz (tofacitinib)
Các tác dụng phụ thường gặp của thuốc ức chế JAK bao gồm:
- Nhiễm trùng, bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp trên và nhiễm trùng đường tiết niệu
- Đau đầu
- Các triệu chứng cảm (đau họng, sổ mũi hoặc nghẹt mũi, v.v.)
- Chóng mặt
- Nhức đầu
- Bầm tím
- Tăng cân
- Các triệu chứng tiêu hóa (đầy hơi, đầy hơi, tiêu chảy, v.v.)
- Mức độ tiểu cầu trong máu thấp và / hoặc thiếu máu
- Hụt hơi
- Mệt mỏi
Corticosteroid
Corticosteroid bắt chước cortisol, một loại hormone được cơ thể sản xuất tự nhiên. Làm như vậy, chúng có thể làm giảm tình trạng viêm nhiễm trong cơ thể. Corticosteroid thường được tiêm vào các khớp bị ảnh hưởng.
Cách Thuốc Corticosteroid Điều trị ViêmMột lời từ rất tốt
Bác sĩ của một người có thể xác định loại thuốc hoặc loại thuốc nào phù hợp với tình trạng riêng của mỗi người. Điều quan trọng cần lưu ý là mặc dù thuốc PsA có thể giảm đau và tổn thương da, nhưng chúng không phải là thuốc chữa bệnh và phải là một phần của kế hoạch điều trị toàn diện bao gồm lối sống lành mạnh và các liệu pháp bổ sung.