NộI Dung
Một biến chứng không phổ biến của ung thư não là chảy máu trong não (được gọi là xuất huyết nội sọ) có thể dẫn đến đột quỵ xuất huyết. Đây là một tình huống tương đối hiếm nhưng có nhiều khả năng xảy ra ở những người trên 60 tuổi bị một số loại ung thư não hoặc những người đã trải qua các đợt xạ trị vùng đầu hoặc cổ.Các triệu chứng
Các triệu chứng của đột quỵ do xuất huyết não khác với đột quỵ điển hình. Điều này là do hầu hết các cơn đột quỵ, được gọi là đột quỵ do thiếu máu cục bộ, xảy ra đột ngột khi một mạch máu trong não bị tắc nghẽn.
Vì các khối u não phát triển chậm nên các triệu chứng đột quỵ có xu hướng phát triển trong vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng hơn là vài giờ hoặc vài phút. Nếu vỡ mạch trong não dẫn đến đột quỵ, nó được gọi là đột quỵ xuất huyết. Các triệu chứng phổ biến nhất của đột quỵ xuất huyết bao gồm:
- Đau đầu dữ dội
- Nhìn đôi
- Yếu một bên cơ thể
- Tê hoặc tê ở một bên của cơ thể
- Không có khả năng nói
- Không có khả năng hiểu ngôn ngữ nói
- Khó viết hoặc đọc
- Thay đổi thị lực hoặc mất thị lực
- Động kinh hoặc co giật
Cả lượng máu chảy và vị trí xuất huyết sẽ quyết định các triệu chứng nhẹ hay nặng.
Các nghiên cứu cho thấy những người bị đột quỵ do khối u não rất dễ bị đột quỵ lần thứ hai, thường trong vòng 2,2 năm.
Nguyên nhân
Có hai loại u não chính, một trong số đó có thể phát triển chảy máu:
- U não nguyên phát bắt nguồn từ mô não. Ví dụ bao gồm khối u tuyến yên, u thần kinh đệm (thường phát triển nhanh) và u màng não (nói chung là phát triển chậm và lành tính).
- Khối u não di căn bắt đầu ở một vùng của cơ thể (chẳng hạn như phổi, vú hoặc thận) và lan sang các bộ phận khác của cơ thể.
Chảy máu do khối u não nguyên phát là một trường hợp tương đối hiếm. Xu hướng chảy máu của khối u não phụ thuộc vào đặc điểm của khối u. Ví dụ, u màng não (phát triển trong màng bao quanh não và tủy sống) hiếm khi gây chảy máu.
Mặc dù di căn não do ung thư phổi hoặc ung thư vú ít có khả năng bị chảy máu, nhưng những di căn liên quan đến khối u ác tính rất dễ bị chảy máu. Các nghiên cứu cho thấy có tới 50% trường hợp xuất huyết nội sọ do di căn có liên quan đến u ác tính.
Ngược lại, u thần kinh đệm (phát triển trong các tế bào dính xung quanh các tế bào thần kinh) dễ bị chảy máu hơn, một phần vì chúng phát triển nhanh. Các khối u tuyến yên cũng dễ bị chảy máu.
Theo một nghiên cứu năm 2017 trên tạp chí Đột quỵ, 72% đột quỵ do khối u não là kết quả của u thần kinh đệm. Bức xạ trước đó vào đầu và cổ cũng là một yếu tố nguy cơ chính, xảy ra trong không dưới 71% trường hợp.
Chẩn đoán
Chảy máu do ung thư khối u não thường có thể được chẩn đoán bằng chụp cắt lớp vi tính (CT). Khi chụp CT não, vùng chảy máu thường có màu trắng sáng, trái ngược với màu xám của mô não bình thường. Ngoài ra, máu trong não thường được bao quanh bởi một vùng tối hơn, biểu hiện sưng não.
Hầu hết các chấn thương đối với não, bao gồm đột quỵ và khối u não, gây ra sưng tấy. Hình dạng và kích thước của vết sưng giúp các bác sĩ xác định xem chảy máu là do khối u não hay một tình trạng khác (chẳng hạn như chấn thương đầu).
Nếu có bất kỳ nghi ngờ nào liên quan đến khối u não, xét nghiệm tiếp theo sẽ là chỉ định chụp cộng hưởng từ (MRI) não cùng với tiêm chất cản quang gọi là gadolinium. Gadolinium giúp khoanh vùng các vùng mô não khỏe mạnh, máu và mô ung thư.
Không hiếm trường hợp chảy máu nội sọ do u thần kinh đệm bị chẩn đoán nhầm thành cơn tăng huyết áp. Trừ khi chỉ định chụp MRI với chất cản quang, u thần kinh đệm có thể bị bỏ sót hoàn toàn và không được kiểm soát.
Sự đối xử
Việc điều trị chảy máu nội sọ phụ thuộc vào các triệu chứng và khối lượng máu liên quan. Phương pháp điều trị tiêu chuẩn là loại bỏ máu và khối u cùng một lúc. Tuy nhiên, nếu lượng máu ít và các triệu chứng nhẹ thì có thể không cần phẫu thuật.
Nếu có thể an toàn để trì hoãn phẫu thuật, các xét nghiệm khác sẽ được thực hiện để giúp xác nhận vị trí của khối u não và nó là nguyên phát hay di căn). Sau đó, bác sĩ chuyên khoa ung thư có thể quyết định những phương pháp điều trị ung thư khác là cần thiết, chẳng hạn như xạ trị và hóa trị.
Nói chung, tiên lượng xấu nếu đột quỵ xảy ra do ung thư não. Mặc dù 85% mọi người có thể đạt được khả năng sống không bệnh trong một năm, nhưng tái phát thường sẽ xảy ra trước năm thứ hai. Tất cả đã nói, thời gian sống trung bình là 11,7 tháng kể từ thời điểm phẫu thuật.
Như đã nói, thời gian sống sót có thể tăng lên 5 năm và thậm chí nhiều hơn nếu đột quỵ nhẹ và ung thư được chẩn đoán ở giai đoạn sớm hơn.
Một lời từ rất tốt
Nếu bạn hoặc người thân bị xuất huyết não do khối u, bạn sẽ cần phải theo dõi rất chặt chẽ với đội ngũ y tế, bao gồm bác sĩ ung thư, bác sĩ thần kinh và bác sĩ giải phẫu thần kinh. Mặc dù sự phục hồi có thể chậm và mệt mỏi, cả về thể chất và tinh thần, nhưng với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ những người thân yêu và đội ngũ chăm sóc sức khỏe của bạn, bạn có thể vượt qua được.