Tổng quan về các giai đoạn ung thư phổi

Posted on
Tác Giả: Frank Hunt
Ngày Sáng TạO: 15 Hành Khúc 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 18 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Tổng quan về các giai đoạn ung thư phổi - ThuốC
Tổng quan về các giai đoạn ung thư phổi - ThuốC

NộI Dung

Ung thư phổi được phân giai đoạn để mô tả mức độ nghiêm trọng của bệnh và từ đó có hướng điều trị phù hợp.Việc phân giai đoạn dựa trên một loạt các xét nghiệm để xác định loại ung thư nào có liên quan, khối u nguyên phát (ban đầu) lớn như thế nào, và mức độ ung thư có thể đã hoặc chưa di căn (đã di căn).

Hệ thống phân giai đoạn khác nhau tùy thuộc vào việc bạn bị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, chiếm khoảng 85% các chẩn đoán, hay ung thư phổi tế bào nhỏ, chiếm 15%.

Xác định giai đoạn ung thư phổi của bạn là một trong những bước quan trọng nhất sau khi chẩn đoán ban đầu. Nó có thể là một quá trình khó chịu, đòi hỏi sự kiên nhẫn vì nhiều thử nghiệm và quy trình được thực hiện. Nhưng việc xác định chính xác giai đoạn ung thư không chỉ có thể giúp bạn đạt được đáp ứng điều trị tối ưu mà còn hỗ trợ dự đoán kết quả có thể xảy ra, được gọi là tiên lượng.

Các loại ung thư phổi phổ biến nhất

Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ

Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) là một nhóm ung thư có biểu hiện giống nhau, ba loại phổ biến nhất là ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tế bào lớn. Các loại NSCLC này khác nhau tùy theo phần phổi mà chúng bắt nguồn và tốc độ phát triển và lây lan của chúng.


Mặc dù mỗi loại đều có những đặc điểm và kết quả khác nhau, các bệnh ung thư đều được phân chia theo cùng một cách. Như một nhóm, NSCLC được chia thành năm giai đoạn, từ giai đoạn 0 đến giai đoạn IV.

2:57

Xem ngay: Tổng quan về giai đoạn ung thư phổi không tế bào nhỏ

Giai đoạn 0

NSCLC giai đoạn 0, còn được gọi là ung thư biểu mô tại chỗ hoặc tiền ung thư, khá phổ biến vì nó hiếm khi có bất kỳ triệu chứng nào ở giai đoạn này. NSCLC giai đoạn 0 thường được phát hiện nhiều nhất trên chụp CT trong quá trình tầm soát ung thư phổi hàng năm của những người có nguy cơ cao.

Theo định nghĩa, NSCLC giai đoạn 0 chỉ giới hạn trong niêm mạc của đường thở và chưa tự lan vào phổi. Nếu không được điều trị, tiền ung thư có thể phát triển thành ung thư.

NSCLC giai đoạn 0 thường được điều trị bằng phẫu thuật, chẳng hạn như cắt bỏ sụn chêm (phẫu thuật cắt bỏ một phần phổi) hoặc cắt bỏ ống tay áo (nếu khối u nằm ở chỗ nối nơi khí quản đi vào phổi). Không cần hóa trị hoặc xạ trị.

Nếu không thể phẫu thuật do sức khỏe của một người hoặc vị trí của khối u, một dạng bức xạ nhắm mục tiêu được gọi là xạ trị toàn thân lập thể (SBRT) có thể được sử dụng với mục đích chữa khỏi bệnh.


Ung thư phổi có thể chữa khỏi?

Giai đoạn I

Giai đoạn I NSCLC được chẩn đoán khi một khối u xâm lấn nhưng chưa lan đến bất kỳ hạch bạch huyết nào. (Tất cả các giai đoạn của ung thư phổi đều xâm lấn ngoại trừ giai đoạn 0.)

Giai đoạn I NSCLC được chia nhỏ thành:

  • Giai đoạn Ia: Khối u có đường kính dưới 3 cm (1¼ inch) và phần đã xâm lấn các mô phổi sâu hơn có chiều ngang không quá ½ cm (dưới ¼ inch).
  • Giai đoạn Ib: Khối u có đường kính lớn hơn 3 cm nhưng không lớn hơn 4 cm (chỉ hơn 1½ inch). Ung thư giai đoạn Ib phải phát triển trên đường thở chính (phế quản) hoặc màng bao quanh phổi (màng phổi nội tạng).

Đối với một số người mắc NSCLC giai đoạn Ia, phẫu thuật ung thư phổi có thể là phương pháp điều trị duy nhất cần thiết. Cắt bỏ nêm thường chỉ được xem xét nếu khối u rất nhỏ. Nếu không, phẫu thuật cắt bỏ thùy (trong đó một trong những thùy của phổi bị loại bỏ) mang lại cơ hội chữa khỏi cao hơn nhiều.


Đối với ung thư phổi giai đoạn Ib hoặc những người có đặc điểm tích cực (chẳng hạn như có thể xảy ra với ung thư biểu mô tế bào lớn), bác sĩ ung thư có thể đề nghị hóa trị bổ trợ. Đây là một hình thức hóa trị sau khi phẫu thuật để giúp đảm bảo rằng tất cả các tế bào ung thư đã bị tiêu diệt.

Nếu bạn có một tình trạng sức khỏe nghiêm trọng khiến bạn không thể phẫu thuật, SBRT có thể được sử dụng.

Giai đoạn II

Giai đoạn II NSCLC là một bệnh ung thư khu trú chưa lan ra ngoài một phổi hoặc các hạch bạch huyết ở bên đó của phổi. Các khối u có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn ung thư giai đoạn I nhưng đã lan đến các hạch bạch huyết, đường thở hoặc các mô màng phổi nội tạng gần đó.

Giai đoạn II NSCLC được chia nhỏ như sau:

  • Giai đoạn IIa: Khối u lớn hơn 4 cm nhưng không lớn hơn 5 cm (2 inch) và đã lan đến phế quản hoặc màng phổi nội tạng nhưng không có các hạch bạch huyết lân cận.
  • Giai đoạn IIb: Khối u có kích thước từ 3 đến 5 cm và đã lan sang các hạch bạch huyết gần đó, hoặc từ 5 đến 7 cm (2¾ inch) và chưa lan sang các hạch bạch huyết gần đó. Đường thở hoặc màng phổi nội tạng cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Phương pháp điều trị NSCLC giai đoạn II thường bao gồm phẫu thuật ung thư phổi, sau đó là hóa trị. Nếu vẫn còn tế bào ung thư sau khi điều trị, có thể sử dụng một đợt hóa trị khác (hoặc hóa trị bằng xạ trị).

Giai đoạn III

Giai đoạn III NSCLC có nghĩa là ung thư đã lan đến các mô lân cận (khu vực). Có cả ung thư giai đoạn III và giai đoạn III tiến triển cục bộ, những ung thư giai đoạn sau khó điều trị hơn.

Giai đoạn III NSCLC được chia nhỏ như sau:

  • Giai đoạn IIIa: Khối u, được mô tả là phát triển cục bộ, nhỏ hơn 5 cm và đã lan đến các hạch bạch huyết của carina (vùng sụn giữa phổi); có kích thước từ 5 đến 7 cm và đã lan đến các hạch bạch huyết (nơi phế quản đi vào phổi); hoặc lớn hơn 7 cm và đã phát triển thành các cơ quan lân cận trong lồng ngực (chẳng hạn như tim hoặc cơ hoành) có hoặc không có hạch bạch huyết.
  • Giai đoạn IIIb: Khối u, được mô tả là tiến triển, có thể có kích thước khác nhau và sẽ lan đến các hạch bạch huyết thượng đòn (xung quanh xương đòn) hoặc bên đối diện của ngực, hoặc biểu hiện bằng hai hoặc nhiều khối u ở một hoặc cả hai phổi.

Phương pháp điều trị NSCLC giai đoạn IIIa và IIIb rất khác nhau. Đối với giai đoạn IIIa, phẫu thuật có thể được thực hiện với mục đích chữa khỏi ung thư. Điều này thường đi kèm với sự kết hợp của hóa trị và xạ trị (còn gọi là hóa trị liệu).

Ngược lại, NSCLC giai đoạn IIIb được coi là không hoạt động được. Thay vì chữa bệnh, các phương pháp điều trị tập trung vào việc kéo dài tuổi thọ và đảm bảo chất lượng cuộc sống tốt nhất có thể.

Chemoradiation thường được sử dụng nếu bạn đủ khỏe mạnh. Nếu đạt được sự kiểm soát, thuốc điều trị miễn dịch Imfinzi (durvalumab) có thể được sử dụng đến một năm để giữ cho khối u ổn định. Nếu hóa xạ trị không thể dung nạp, có thể sử dụng thuốc trị liệu miễn dịch Keytruda (pembrolizumab).

Ung thư phổi không thể hoạt động nghĩa là gì

Giai đoạn IV

Giai đoạn IV NSCLC là giai đoạn phát triển nhất của ung thư phổi. Còn được gọi là ung thư phổi di căn, nó đề cập đến bất kỳ kích thước và loại NSCLC nào đã lây lan từ phổi này sang phổi kia, sang bộ phận khác của cơ thể hoặc đến chất lỏng xung quanh phổi hoặc tim.

NSCLC giai đoạn IV không thể chữa khỏi, nhưng nó có thể điều trị được. Phẫu thuật hiếm khi được sử dụng trừ khi một khối u đang gây tắc nghẽn lớn trong đường thở hoặc can thiệp vào chức năng của tim hoặc các cơ quan quan trọng khác.

Ngoài hóa trị, xạ trị và liệu pháp miễn dịch, có các liệu pháp nhắm mục tiêu mới hơn như Xalkori (crizotinib) và Tarceva (erlotinib) có thể xác định và tấn công các tế bào ung thư có đột biến gen cụ thể (chẳng hạn như đột biến EGFR, sắp xếp lại ALK và ROS1 sắp xếp lại). Kết hợp với nhau, những phương pháp điều trị này có thể giúp kéo dài tuổi thọ và cho phép bạn có cuộc sống chất lượng hơn.

Các thử nghiệm lâm sàng cũng nên được xem xét, cho phép bạn tiếp cận với các phương pháp điều trị thử nghiệm khi các loại thuốc hiện có không dung nạp được hoặc không hiệu quả.

Các địa điểm phổ biến cho di căn ung thư phổi

Ung thư phổi tế bào nhỏ

Ung thư phổi tế bào nhỏ là một dạng bệnh ít phổ biến hơn, có xu hướng tiến triển mạnh hơn NSCLC và có nhiều khả năng tái phát sau khi điều trị. Có hai loại SCLC chính: ung thư biểu mô tế bào nhỏ (còn được gọi là ung thư biểu mô tế bào yến mạch) và ung thư biểu mô tế bào nhỏ kết hợp (trong đó có cả tế bào ung thư phổi nhỏ và không nhỏ).

Không giống như ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, ung thư phổi tế bào nhỏ chỉ được chia thành hai giai đoạn: SCLC giai đoạn hạn chế và SCLC giai đoạn rộng.

Giai đoạn giới hạn

Khoảng một phần ba số người được chẩn đoán trong giai đoạn sớm nhất của ung thư phổi tế bào nhỏ, được gọi là SCLC giai đoạn giới hạn. Những khối u này chỉ xuất hiện ở một phổi nhưng cũng có thể đã lan đến các hạch bạch huyết ở cùng bên ngực.

SCLC đã lan đến các hạch bạch huyết thượng đòn hoặc hạch bạch huyết trung thất (ở giữa ngực) cũng có thể được coi là SCLC giai đoạn giới hạn.

SCLC giai đoạn hạn chế thường được điều trị tích cực với mục đích chữa khỏi bệnh. Điều này có thể liên quan đến:

  • Hóa trị một mình
  • Chemoradiation vào ngực
  • Phẫu thuật sau đó là hóa trị
  • Phẫu thuật sau đó là hóa trị
  • SBRT sau đó là hóa trị là không thể phẫu thuật

Giai đoạn mở rộng

Khoảng 2/3 số người được chẩn đoán mắc SCLC có bệnh ở giai đoạn rộng, dạng ung thư phổi tế bào nhỏ tiến triển hơn. Với SCLC giai đoạn rộng, các khối u có thể hiện diện ở cả hai phổi hoặc đã di căn đến các bộ phận xa của cơ thể, phổ biến nhất là não.

SCLC giai đoạn rộng không thể chữa khỏi và hiếm khi được điều trị bằng phẫu thuật. Mặc dù nó có xu hướng lây lan mạnh, SCLC đáp ứng tốt với hóa trị liệu (hoạt động bằng cách nhắm mục tiêu vào các tế bào tái tạo nhanh).

Trong số các lựa chọn điều trị cho SCLC giai đoạn rộng là:

  • Hóa trị một mình
  • Hóa trị với các loại thuốc điều trị miễn dịch như Opdivo (nivolumab)
  • Hóa trị sau đó là xạ trị vào ngực
  • Hóa trị sau đó là xạ trị vào đầu để ngăn chặn sự di căn của ung thư lên não
  • Bức xạ đến não, cột sống, xương hoặc các bộ phận khác của cơ thể nơi ung thư đã di căn như một phần của điều trị giảm nhẹ (được sử dụng để giảm các triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống)
Cách điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ

Tiên lượng

Việc phân giai đoạn ung thư phổi không chỉ dùng để định hướng điều trị mà còn dự đoán diễn biến và kết quả của bệnh. Chìa khóa cho tiên lượng là tỷ lệ sống sót. Đây là tỷ lệ phần trăm những người mắc bệnh được mong đợi sẽ sống trong một khoảng thời gian sau khi được chẩn đoán.

Tỷ lệ sống sót dựa trên tất cả mọi người mắc bệnh, không phân biệt tuổi tác và sức khỏe chung của họ tại thời điểm chẩn đoán. Như vậy, nếu bạn có sức khỏe tốt, khả năng bạn vượt qua thời gian sống sót ước tính sẽ cao hơn những người có sức khỏe kém.

Hầu hết các nhà dịch tễ học sử dụng tỷ lệ sống sót sau năm năm cho các mục đích so sánh, dự đoán tỷ lệ những người sẽ sống cho ít nhất năm năm sau chẩn đoán. Giai đoạn ung thư càng tiến triển thì tỷ lệ sống càng giảm.

Tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với những người điều trị sau NSCLC và SCLC như sau:

Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ
  • Giai đoạn 0: 100%

  • Giai đoạn Ia: 90%

  • Giai đoạn Ib: 80%

  • Giai đoạn IIa: 65%

  • Giai đoạn IIb: 56%

  • Giai đoạn IIIa: 41%

  • Giai đoạn IIIb: 24%

  • Giai đoạn V: 10%

Ung thư phổi tế bào nhỏ
  • Giai đoạn hạn chế: 28%

  • Giai đoạn mở rộng: 6%

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sống còn với bệnh ung thư phổi

Một lời từ rất tốt

Điều quan trọng cần nhớ là mọi người đều khác nhau và mọi bệnh ung thư đều khác nhau. Mặc dù giai đoạn ung thư phổi là một công cụ vô giá để đảm bảo mức độ chăm sóc được tiêu chuẩn hóa dựa trên hiểu biết hiện tại của chúng ta về căn bệnh này, nhưng sự hiểu biết đó đang thay đổi hàng ngày. Điều này không đúng hơn so với thời gian tồn tại.

Với sự ra đời nhanh chóng của các liệu pháp miễn dịch mới hơn và các loại thuốc nhắm mục tiêu, bạn có thể mong đợi thời gian sống sót của những người mắc NSCLC và SCLC tăng lên trong những năm tới. Vì vậy, thay vì tập trung vào "bạn còn sống được bao lâu", hãy tìm hiểu càng nhiều càng tốt về bệnh của bạn và tiếp tục đánh giá về bất kỳ sự phát triển mới nào trong các phương pháp điều trị.

Nếu nghi ngờ về một kế hoạch điều trị, đừng ngần ngại tìm kiếm ý kiến ​​thứ hai từ một chuyên gia trong lĩnh vực này. Bạn có thể làm như vậy bằng cách liên hệ với chuyên gia tại trung tâm điều trị do Viện Ung thư Quốc gia chỉ định, người có nhiều khả năng được cập nhật về các phương pháp và lựa chọn điều trị mới nhất.

Cách tìm Trung tâm Điều trị Ung thư Phổi Tốt nhất
  • Chia sẻ
  • Lật
  • E-mail
  • Bản văn