NộI Dung
Điều trị nhiễm sán dây sẽ bao gồm các loại thuốc nhắm vào con giun. Các loại thuốc có thể khác nhau tùy theo loại sán dây liên quan, chẳng hạn như sán dây bò (Taenia saginata), sán dây lợn (Taenia solium), sán dây cá (Diphyllobothrium latum), Sán dây Châu Á (Taenia asiatica), và sán dây lùn (Hymenolepis nana).Điều quan trọng là phải dùng thuốc theo đúng chỉ định và tuân theo các chỉ dẫn để tránh tái nhiễm trong và sau khi điều trị. Đối với trường hợp nhiễm sán dây lợn, nếu tình trạng nghiêm trọng hơn được gọi là bệnh sán dây lợn đã xảy ra, có thể dùng thuốc để điều trị các triệu chứng và trong một số trường hợp có thể phải phẫu thuật.
Đơn thuốc
Praziquantel
Praziquantel (Biltricide) là một loại thuốc được sử dụng để điều trị nhiễm sán dây. Đây là một loại thuốc chống ký sinh trùng thuộc nhóm thuốc được gọi là thuốc chống giun sán. Để điều trị nhiễm sán dây, người ta tiêm một liều praziquantel.
Sán dây tự bám vào các mạch máu ở thành ruột. Praziquantel hoạt động để làm sạch nhiễm trùng bằng cách làm tê liệt giun, sau đó chúng tách ra khỏi thành ruột và sau đó đi qua ruột và ra khỏi cơ thể qua hậu môn bằng cách đi tiêu.
Viên nén Praziquantel nên được uống nguyên viên (trừ khi cần bẻ viên thuốc để lấy liều lượng), không được nghiền nát, vì chúng có vị đắng và sẽ dễ cai hơn nếu nuốt cả viên. Chúng cũng nên được uống trong bữa ăn và một cốc nước đầy.
Tác dụng phụ của Praziquantel
- đau đầu
- đau bụng
- buồn nôn và ói mửa
- mệt mỏi hoặc suy nhược
- sốt
- đổ mồ hôi
- đau khớp hoặc cơ
- phát ban da
- ăn mất ngon
Phản ứng dị ứng với praziquantel rất hiếm, nhưng các triệu chứng của phản ứng dị ứng như nổi mề đay, ngứa, chóng mặt, khó thở hoặc sưng cổ họng hoặc lưỡi là lý do để tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức.
Praziquantel tương tác với bưởi, vì vậy những người dùng thuốc này không nên ăn bưởi hoặc uống nước bưởi trong khi dùng thuốc.
Praziquantel thuộc nhóm thai kỳ B, có nghĩa là các nghiên cứu đã được thực hiện trên động vật chứ không phải ở người và thuốc dự kiến sẽ không ảnh hưởng đến thai nhi. Tuy nhiên, chỉ nên sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai khi thực sự cần thiết và phụ nữ có thai nên nói chuyện với bác sĩ của họ trước khi nhận thuốc này để đưa ra quyết định sáng suốt. Thuốc này đi vào sữa mẹ và tạm dừng cho con bú trong ba ngày (72 giờ) sau liều cuối cùng thường được khuyến cáo.
Thuốc này có thể gây chóng mặt hoặc mệt mỏi và những người dùng thuốc nên tránh lái xe và uống rượu vì điều đó có thể làm tăng những tác dụng này.
Nói với bác sĩ về bất kỳ loại thuốc hoặc chất bổ sung nào khác vì chúng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của praziquantel, bao gồm:
- Thuốc chống động kinh như Carbatrol (carbamazepine, Equetro, Tegretol), Dilantin (phenytoin), Felbatol (felbamate), Mysoline (primidone), phenobarbital, Trileptal (asoxcarbazepine)
- Aralen (chloroquine)
- Thuốc chống nấm Azole (itraconazole, ketoconazole)
- Thuốc an thần như Amytal (amobarbital), Butisol (butabarbital), Mebaral (mephobarbital), Seconal (secobarbital) hoặc Solfoton (phenobarbital)
- Decadron (Hexadrol, dexamethasone)
- Erythrocin (erythromycin (E.E.S., EryPed, Ery-Ta)
- Phương pháp điều trị HIV, bao gồm Sustiva (efavirenz, Atripla), Intelence (etravirine), Viramune (nevirapine) hoặc Norvir (ritonavir, Kaletra)
- Ketozole (ketoconazole, Extina, Nizoral, Xolegal)
- Mycobutin (rifabutin)
- Priftin (rifapentine)
- St. John's wort
- Thuốc trị rối loạn giấc ngủ, bao gồm Nuvigil (armodafinil) hoặc Progivil (modafinil)
- Sporanox (itraconazole)
- Tagamet (cimetidine)
Alinia
Một loại thuốc khác, Alinia (nitazoxanide), được sử dụng trong trường hợp nhiễm sán dây Dwarf (H nanaAlinia là một loại thuốc chống động vật nguyên sinh có thể được phân phối dưới dạng viên nén hoặc hỗn dịch lỏng. Nó nên được thực hiện ngay sau khi ăn một bữa ăn nhẹ và chế phẩm lỏng nên được lắc kỹ trước khi pha chế.
Trước khi dùng Alinia, hãy cho bác sĩ biết về bất kỳ bệnh hoặc tình trạng nào khác, đặc biệt là bệnh tiểu đường, bệnh gan, bệnh thận, nhiễm HIV hoặc bệnh hệ thống miễn dịch.
Tác dụng phụ của Alinia
- đau bụng
- đau đầu
- buồn nôn
- bệnh tiêu chảy
- nôn mửa
- nước tiểu đổi màu tạm thời
Bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng như nổi mề đay, ngứa, phát ban hoặc sưng miệng và lưỡi là lý do để tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức.
Alinia đã được nghiên cứu trên động vật nhưng không ở người mang thai và được xếp vào nhóm thai nghén B vì nguy cơ đối với phôi thai là chưa rõ. rủi ro của thuốc này với bác sĩ của họ trước khi nhận nó. Người ta không biết liệu Alinia có đi vào sữa mẹ hay không và chưa rõ ảnh hưởng đến trẻ bú mẹ.
Thông tin kê đơn khuyến cáo không nên dùng Alinia trong khi cũng đang dùng Coumadin (warfarin). Nói với bác sĩ về bất kỳ loại thuốc hoặc chất bổ sung nào khác vì chúng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của Alinia, bao gồm:
- Aspirin
- Bumex (bumetanide)
- Cleocin (Clindesse, clindamycin)
- Coumadin (Jantoven warfarin)
- Depakene (Stavzor, axit valproic)
- Diabeta (Glynase, glyburide)
- Diamox Sequels (acetazolamide)
- Dilantin (Phenytek, phenytoin)
- Glucotrol (glipizide)
- Hygroton (Thalitone, chlorthalidone)
- Platinol (cisplatin)
- Prograf (Astagraf XL, tacrolimus)
- Soriatane (acitretin)
- Oncovin (Vincasar PFS, vincristine)
Điều trị bệnh Cysticercosis
Bệnh sán dây lợn là một biến chứng của việc nhiễm sán dây lợn (T. solium). Khi một người ăn phải trứng của sán dây lợn, qua thức ăn, nước bị ô nhiễm hoặc từ người khác, những quả trứng có thể tạo thành các khối cầu gọi là oncospheres.
Các oncospheres có thể đi ra ngoài ruột và qua cơ thể. Sau đó, chúng có thể cư trú trong não, cơ, mắt, dưới da hoặc trong các cơ quan khác và hình thành u nang. Những u nang này có thể cần điều trị hoặc không.
Khi u nang hình thành trong não (gây ra một tình trạng gọi là bệnh u nang thần kinh), có thể dẫn đến co giật. Thuốc chống ký sinh trùng tiêu diệt u nang sẽ được cung cấp, nhưng cũng có thể cần thiết phải dùng các loại thuốc khác. Khi nang sán dây chết khi điều trị, có thể bị viêm cần điều trị bằng thuốc chống viêm như prednisone (một loại corticosteroid). Thuốc chống co giật có thể cần thiết để ngăn ngừa co giật. Đối với u nang ở tủy sống hoặc mắt, thuốc chống ký sinh trùng không được đưa ra vì nguy cơ viêm nhiễm có thể làm hỏng các mô ở những vùng đó.
Sau khi điều trị
Để đảm bảo rằng bệnh nhiễm sán dây đã khỏi, bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm phân. Xét nghiệm này sẽ sàng lọc giun, trứng hoặc proglottids trong phân để đảm bảo rằng không cần điều trị thêm hoặc không xảy ra tái nhiễm.
Tái nhiễm là một nguy cơ, vì vậy rửa tay đúng cách và tuân theo các khuyến nghị khác của bác sĩ liên quan đến việc nấu ăn là quan trọng. Trong trường hợp bệnh u xơ thần kinh, việc theo dõi có thể bao gồm các xét nghiệm hình ảnh và các phương pháp điều trị khác nếu cần.
Điều quan trọng là phải giữ các cuộc hẹn tái khám và thực hiện tất cả các xét nghiệm được khuyến nghị.