Những điều bạn cần biết về Uloric (Febuxostat)

Posted on
Tác Giả: Roger Morrison
Ngày Sáng TạO: 2 Tháng Chín 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 15 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Video 3   Febuxostat Bệnh Gút - BSNT Nguyễn Huy Thông - Ôn Thi Nội Trú
Băng Hình: Video 3 Febuxostat Bệnh Gút - BSNT Nguyễn Huy Thông - Ôn Thi Nội Trú

NộI Dung

Uloric (febuxostat) được FDA Hoa Kỳ chấp thuận vào ngày 13 tháng 2 năm 2009. Uloric là lựa chọn điều trị mới đầu tiên trong 40 năm cho những bệnh nhân bị tăng acid uric máu và bệnh gút, theo Takeda Pharmaceuticals North America, Inc.

Uloric là một loại thuốc được sử dụng để kiểm soát mãn tính tăng axit uric máu trong bệnh gút. Uloric làm giảm nồng độ axit uric trong huyết thanh bằng cách ngăn chặn xanthine oxidase - enzyme chịu trách nhiệm sản xuất axit uric. Xanthine oxidase phân hủy hypoxanthine (một dẫn xuất purine tự nhiên) thành xanthine, và sau đó thành axit uric.

Theo Hướng dẫn quản lý bệnh gút của Trường Cao đẳng Thấp khớp Hoa Kỳ năm 2020, thuốc này được khuyến cáo đặc biệt cho những bệnh nhân bị bệnh gút đồng thời mắc bệnh thận mãn tính, trong khi những bệnh nhân mới hoặc tiền sử bệnh tim mạch có thể cần một phương pháp điều trị thay thế. Bác sĩ có thể giúp đề xuất phương pháp điều trị lý tưởng cho tình trạng của bạn.

Uloric được quản lý như thế nào?

Liều Uloric được chấp thuận là 40 mg và 80 mg, dùng một lần mỗi ngày. Uloric là một loại thuốc uống (uống). Liều khởi đầu được khuyến cáo của Uloric là 40 mg x 1 lần / ngày. Khuyến cáo tăng lên 80 mg cho những bệnh nhân không đạt được acid uric huyết thanh dưới 6 mg / dL sau hai tuần dùng liều 40 mg. Uloric có thể được dùng cùng hoặc không với thức ăn và không có khuyến cáo nào ngăn cản việc sử dụng thuốc kháng axit. Không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy gan hoặc thận nhẹ đến trung bình.


Hiệu suất trong các thử nghiệm lâm sàng

Trong các thử nghiệm lâm sàng, Uloric liều cao được phát hiện có hiệu quả hơn so với giả dược hoặc allopurinol liều tiêu chuẩn - loại thuốc khác được sử dụng để điều trị tăng acid uric máu. Ngoài ra, trong một thử nghiệm giai đoạn III kéo dài 6 tháng - tỷ lệ phần trăm bệnh nhân gút, những người giảm nồng độ axit uric của họ xuống mức mong muốn dưới 6, ở những người dùng 80 mg cao hơn nhiều so với những người dùng 40 mg Uloric.

Tác dụng phụ và cảnh báo

Uloric không được khuyến cáo cho những người bị tăng acid uric máu không có triệu chứng. Những người đã được điều trị bằng azathioprine (Imuran), mercaptopurine và theophylline không nên sử dụng uloric.

Dựa trên ba nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng, bất thường chức năng gan, buồn nôn, đau khớp và phát ban là những phản ứng có hại phổ biến nhất xảy ra ở ít nhất 1% bệnh nhân được điều trị bằng Uloric và ít nhất 0,5% so với giả dược. Ngoài ra, so với allopurinol, sử dụng Uloric có liên quan đến tỷ lệ biến cố huyết khối tắc mạch tim mạch cao hơn, nhưng không có mối quan hệ nhân quả trực tiếp nào được xác định. Các bất thường về chức năng gan là phản ứng phụ thường gặp nhất dẫn đến việc ngừng sử dụng Uloric.


Đã có báo cáo sau khi đưa ra thị trường về suy gan, tử vong và không tử vong, ở những bệnh nhân được điều trị bằng Uloric. Tuy nhiên, các báo cáo không chứa đủ dữ liệu để thiết lập mối quan hệ nhân quả.

Sự gia tăng bùng phát bệnh gút thường xảy ra khi bắt đầu sử dụng thuốc chống tăng axit uric máu. Điều đó bao gồm cả Uloric. Nếu một đợt bùng phát bệnh gút liên quan đến việc bắt đầu điều trị Uloric xảy ra, thì không cần phải ngừng thuốc. Để ngăn ngừa bùng phát bệnh gút liên quan đến việc bắt đầu điều trị Uloric, NSAID hoặc một loại thuốc chống viêm khác như colchicine có thể được dùng đồng thời. Sự gia tăng bùng phát bệnh gút được cho là do giảm nồng độ axit uric trong huyết thanh, do đó gây ra sự di chuyển của urat từ các mô lắng đọng.

Chưa có nghiên cứu kiểm soát tốt về Uloric ở phụ nữ có thai. Trong thai kỳ, chỉ nên sử dụng Uloric nếu lợi ích dự đoán cao hơn nguy cơ có thể xảy ra cho thai nhi. Ngoài ra, người ta không biết liệu Uloric có được bài tiết qua sữa mẹ hay không. Phụ nữ cho con bú phải thận trọng.


Tính an toàn và hiệu quả của Uloric ở trẻ em dưới 18 tuổi cũng chưa được biết đến.