NộI Dung
Thuốc phòng vệ là tình huống bác sĩ thực hành y học, thông qua chẩn đoán hoặc điều trị, không phải để giúp bệnh nhân, mà là để ngăn chặn hành động pháp lý (một vụ kiện sơ suất) nếu một vấn đề xảy ra. Bác sĩ vượt ra ngoài những gì thường cần thiết để chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân để họ có thể đảm bảo rằng họ không bỏ sót bất kỳ tình trạng khó xảy ra nhưng có thể xảy ra. Họ có thể thực hiện các thủ tục mà bệnh nhân muốn hoặc mong đợi ngay cả khi chúng không cần thiết về mặt lâm sàng, để giữ cho bệnh nhân hài lòng. Vì những lý do này, thuốc phòng vệ được cho là có thể dẫn đến lạm dụng và điều trị quá mức. Họ muốn ngăn chặn những kết quả xấu (tuy nhiên khó xảy ra) và tránh để bệnh nhân tức giận.Có một số dữ liệu cho thấy việc đặt hàng nhiều thử nghiệm hơn có thể làm giảm các vụ kiện tụng. Một nghiên cứu được xuất bản trong The British Medical JournaTôi vào năm 2015 đã xem xét một số lượng lớn các bác sĩ hành nghề y khoa ở Florida từ 2000-2009. Họ phát hiện ra rằng các bác sĩ đã chỉ định hầu hết các xét nghiệm trong bất kỳ năm nào về cơ bản sẽ ít bị kiện hơn vào năm sau.
Một khía cạnh khác của thuốc phòng vệ là khi bác sĩ hoặc hành nghề y tế tránh điều trị cho những bệnh nhân có nguy cơ cao. Họ chọn những bệnh nhân có nhiều khả năng có kết quả tốt hơn, hoặc họ chọn một chuyên khoa y tế ít rủi ro hơn đối với những bộ quần áo sơ suất. Điều này có thể dẫn đến việc các bác sĩ tài năng nhất không điều trị cho những bệnh nhân cần kỹ năng của họ nhất.
Ví dụ về thuốc phòng vệ
Đặt hàng xét nghiệm mà một bệnh nhân không thực sự cần, với nỗ lực chỉ đơn giản là để kết quả hiển thị trong hồ sơ của cô ấy, là một phương pháp y học phòng vệ được nhiều bác sĩ sử dụng. "Thuốc phòng vệ" thường là câu trả lời cho câu hỏi, "Tại sao bác sĩ của tôi gửi tôi đi xét nghiệm nhiều như vậy?"
Một bác sĩ phòng cấp cứu nhìn thấy một bệnh nhân bị một cú đánh vào đầu. Mọi thứ trong quá trình khám sức khỏe chỉ ra rằng không có dấu hiệu tụ máu ngoài màng cứng và bác sĩ có thể cho bệnh nhân xuất viện mà không cần chụp CT. Tuy nhiên, rủi ro rất nhỏ là họ có thể bỏ lỡ chẩn đoán đó và dẫn đến một vụ kiện dẫn đến việc đưa bệnh nhân đi chụp CT.
Chi phí thuốc phòng vệ
Các bác sĩ thực hành trong các chuyên khoa có nguy cơ cao nhất thích thực hành y học phòng vệ. Vào năm 2005, một cuộc khảo sát cho thấy có tới 93% đang yêu cầu xét nghiệm, kê đơn thuốc hoặc thực hiện các thủ thuật với nỗ lực bảo vệ bản thân hơn là bảo vệ bệnh nhân mà các biện pháp đó đã được thực hiện. Các nỗ lực lập pháp để giới hạn giải thưởng sơ suất là một chiến thuật được đề xuất.
Thuốc phòng vệ là một yếu tố đóng góp rất lớn vào việc tăng chi phí chăm sóc sức khỏe ở Hoa Kỳ. Một phân tích được xuất bản trong Tình hình sức khỏe trong năm 2018, ước tính rằng y học phòng thủ tăng thêm 25,6 tỷ đô la mỗi năm. Nó có thể đóng góp tới 34% chi phí chăm sóc sức khỏe hàng năm ở Hoa Kỳ.
Nguy hiểm của thuốc phòng vệ
Điều trị quá mức bằng thuốc kháng sinh là một ví dụ về thuốc phòng vệ gây nguy hiểm cho mọi người. Cha mẹ có thể mong đợi một đơn thuốc kháng sinh khi cô ấy đưa con mình đến bác sĩ để bị cảm lạnh. Bác sĩ biết là không cần thiết, nhưng người mẹ nhất quyết xin đơn thuốc. Bác sĩ nhượng bộ. Bây giờ vi khuẩn bình thường của trẻ đã bị kháng sinh tiêu diệt, chỉ còn lại vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh. Khi điều này xảy ra lặp đi lặp lại, các chủng như MRSA phát triển có khả năng kháng với hầu hết các loại thuốc kháng sinh và có thể gây bệnh và giết chết nhiều bệnh nhân.
Các phương pháp điều trị y tế thích hợp như theo dõi và chờ đợi đối với một số bệnh ung thư tuyến tiền liệt có nguy cơ thấp, phát triển chậm có thể không được áp dụng vì bệnh nhân yêu cầu điều trị tích cực hoặc có thể khởi kiện nếu có kết quả xấu.
Điều trị y tế tích cực (chẳng hạn như cắt bỏ tuyến tiền liệt triệt để, xạ trị hoặc liệu pháp hormone) không phải là không có nguy cơ bị thương, tử vong hoặc các biến chứng như mất kiểm soát và liệt dương.