Quy trình chẩn đoán tiêu hóa

Posted on
Tác Giả: Joan Hall
Ngày Sáng TạO: 6 Tháng MộT 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 5 Tháng BảY 2024
Anonim
Quy trình chẩn đoán tiêu hóa - SứC KhỏE
Quy trình chẩn đoán tiêu hóa - SứC KhỏE

NộI Dung

Làm thế nào để chẩn đoán rối loạn tiêu hóa?

Để chẩn đoán rối loạn tiêu hóa, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ tiến hành khám bệnh kỹ lưỡng và chính xác cho bạn, ghi nhận các triệu chứng bạn đã gặp và bất kỳ thông tin thích hợp nào khác. Một bài kiểm tra thể chất cũng được thực hiện để giúp đánh giá vấn đề một cách toàn diện hơn.

Một số bệnh nhân cần phải trải qua một cuộc đánh giá chẩn đoán rộng rãi hơn. Điều này có thể bao gồm các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, xét nghiệm hình ảnh và / hoặc các thủ tục nội soi. Những thử nghiệm này có thể bao gồm bất kỳ, hoặc kết hợp những điều sau:

Xét nghiệm

  • Xét nghiệm máu trong phân. Xét nghiệm máu ẩn trong phân để kiểm tra máu ẩn (ẩn) trong phân. Nó liên quan đến việc đặt một lượng rất nhỏ phân vào một thẻ đặc biệt. Sau đó, phân được xét nghiệm tại văn phòng của nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc gửi đến phòng thí nghiệm.

  • Cấy phân. Cấy phân để kiểm tra sự hiện diện của vi khuẩn bất thường trong đường tiêu hóa có thể gây tiêu chảy và các vấn đề khác. Một mẫu phân nhỏ được văn phòng nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn thu thập và gửi đến phòng thí nghiệm. Trong 2 hoặc 3 ngày, xét nghiệm sẽ cho biết có vi khuẩn bất thường hay không.


Kiểm tra hình ảnh

  • Bữa ăn bò bít tết bari. Trong quá trình thử nghiệm này, bệnh nhân ăn một bữa ăn có chứa bari (một chất lỏng kim loại, có màu phấn được dùng để phủ bên trong các cơ quan để chúng hiển thị trên phim X-quang). Điều này cho phép bác sĩ X quang theo dõi dạ dày khi nó tiêu hóa bữa ăn. Khoảng thời gian cần thiết để bữa ăn bari được tiêu hóa và rời khỏi dạ dày giúp nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe biết được dạ dày đang hoạt động tốt như thế nào và giúp tìm ra các vấn đề rỗng có thể không hiển thị trên phim chụp X-quang bari lỏng.

  • Nghiên cứu quá cảnh đại trực tràng. Thử nghiệm này cho thấy mức độ di chuyển của thức ăn qua ruột kết. Bệnh nhân nuốt viên nang có chứa các điểm đánh dấu nhỏ có thể nhìn thấy trên X-quang. Bệnh nhân tuân theo một chế độ ăn nhiều chất xơ trong suốt quá trình thử nghiệm. Sự di chuyển của các chất đánh dấu qua ruột kết được theo dõi bằng chụp X-quang bụng nhiều lần từ 3 đến 7 ngày sau khi viên nang được nuốt.

  • Chụp cắt lớp vi tính (CT hoặc CAT scan). Đây là một xét nghiệm hình ảnh sử dụng tia X và máy tính để tạo ra hình ảnh chi tiết của cơ thể. Chụp CT cho thấy các chi tiết của xương, cơ, mỡ và các cơ quan. Chụp CT chi tiết hơn chụp X-quang tổng quát.


  • Giải phẫu. Chụp phân là chụp X-quang vùng hậu môn trực tràng để đánh giá mức độ đào thải phân hoàn toàn, xác định các bất thường ở hậu môn trực tràng, đánh giá sự co thắt và thư giãn của cơ trực tràng. Trong quá trình kiểm tra, trực tràng của bệnh nhân chứa đầy một chất nhão mềm có độ đặc giống như phân. Sau đó bệnh nhân ngồi trên bồn cầu đặt bên trong máy X-quang, bóp và thả lỏng hậu môn để tống dung dịch ra ngoài. Bác sĩ X-quang nghiên cứu tia X để xác định xem vấn đề hậu môn trực tràng có xảy ra trong khi bệnh nhân đổ chất dán từ trực tràng hay không.

  • Giảm GI (đường tiêu hóa) loạt (còn gọi là thuốc xổ bari). Chuỗi GI thấp hơn là một xét nghiệm kiểm tra trực tràng, ruột già và phần dưới của ruột non. Bari được đưa vào trực tràng dưới dạng thuốc xổ. Chụp X-quang vùng bụng cho thấy các khe hẹp (vùng hẹp), chướng ngại vật (tắc nghẽn) và các vấn đề khác.

  • Chụp cộng hưởng từ (MRI). MRI là một xét nghiệm chẩn đoán sử dụng kết hợp nam châm lớn, tần số vô tuyến và máy tính để tạo ra hình ảnh chi tiết của các cơ quan và cấu trúc bên trong cơ thể. Bệnh nhân nằm trên giường di chuyển vào máy MRI hình trụ. Máy chụp một loạt ảnh bên trong cơ thể bằng cách sử dụng từ trường và sóng vô tuyến. Máy tính nâng cao hình ảnh được tạo ra. Xét nghiệm này không gây đau đớn và không liên quan đến việc tiếp xúc với bức xạ. Bởi vì máy MRI giống như một đường hầm, một số người cảm thấy ngột ngạt hoặc không thể giữ yên trong khi kiểm tra. Họ có thể được cho một loại thuốc an thần để giúp họ thư giãn. Các vật kim loại không thể hiện diện trong phòng chụp MRI, vì vậy những người có máy tạo nhịp tim hoặc kẹp hoặc que kim loại bên trong cơ thể không thể thực hiện xét nghiệm này. Tất cả đồ trang sức phải được tháo ra trước khi thử nghiệm.


  • Chụp mật tụy cộng hưởng từ (MRCP). Xét nghiệm này sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) để xem các ống dẫn mật. Máy sử dụng sóng radio và nam châm để quét các mô và cơ quan nội tạng.

  • Nghiên cứu nhu động hầu họng (nuốt). Đây là một nghiên cứu trong đó bệnh nhân được cho một lượng nhỏ chất lỏng có chứa bari để uống bằng chai, thìa hoặc cốc. Một loạt các tia X được thực hiện để đánh giá những gì xảy ra khi chất lỏng được nuốt vào.

  • Chụp làm rỗng dạ dày bằng đồng vị phóng xạ. Trong quá trình thử nghiệm này, bệnh nhân ăn thức ăn có chứa đồng vị phóng xạ, là một chất phóng xạ nhẹ sẽ hiển thị trên bản quét. Liều lượng bức xạ từ đồng vị phóng xạ rất nhỏ và không gây hại, nhưng cho phép bác sĩ X quang nhìn thấy thức ăn trong dạ dày và tốc độ nó rời khỏi dạ dày, trong khi bệnh nhân nằm dưới máy.

  • Siêu âm. Siêu âm là một kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh sử dụng sóng âm tần số cao và máy tính để tạo ra hình ảnh của mạch máu, mô và cơ quan. Siêu âm được sử dụng để xem các cơ quan nội tạng khi chúng hoạt động và đánh giá lưu lượng máu qua các mạch khác nhau. Gel được thoa lên vùng cơ thể đang được nghiên cứu, chẳng hạn như bụng, và một cây đũa gọi là đầu dò được đặt trên da. Đầu dò sẽ gửi sóng âm thanh vào cơ thể, phản xạ các cơ quan và quay trở lại máy siêu âm, tạo ra hình ảnh trên màn hình. Một hình ảnh hoặc băng video của bài kiểm tra cũng được thực hiện để nó có thể được xem lại trong tương lai.

  • Loạt GI trên (đường tiêu hóa) (còn gọi là nuốt bari). Dòng GI trên là một xét nghiệm chẩn đoán nhằm kiểm tra các cơ quan của phần trên của hệ tiêu hóa: thực quản, dạ dày và tá tràng (đoạn đầu tiên của ruột non). Bari được nuốt và chụp X-quang sau đó để đánh giá các cơ quan tiêu hóa.

Quy trình nội soi

  • Nội soi đại tràng. Nội soi đại tràng là một thủ thuật cho phép nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe xem toàn bộ chiều dài của ruột già (ruột kết). Nó thường có thể giúp xác định sự phát triển bất thường, mô bị viêm, loét và chảy máu. Nó liên quan đến việc đưa một ống soi ruột kết, một ống dài, linh hoạt, có ánh sáng, xuyên qua trực tràng vào ruột kết. Ống soi ruột kết cho phép nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhìn thấy niêm mạc đại tràng, loại bỏ mô để kiểm tra thêm và có thể điều trị một số vấn đề được phát hiện.

  • Nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP). ERCP là một thủ tục cho phép nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chẩn đoán và điều trị các vấn đề về gan, túi mật, đường mật và tuyến tụy. Quy trình kết hợp giữa tia X và sử dụng ống nội soi. Đây là một ống dài, linh hoạt, có ánh sáng. Ống soi được dẫn qua miệng và cổ họng của bệnh nhân, sau đó qua thực quản, dạ dày và tá tràng (phần đầu tiên của ruột non). Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể kiểm tra bên trong các cơ quan này và phát hiện bất kỳ bất thường nào. Sau đó, một ống được đưa qua ống soi, và một chất nhuộm được tiêm vào để cho phép các cơ quan nội tạng xuất hiện trên phim X-quang.

  • Nội soi Esophagogastroduodenoscopy (còn được gọi là EGD hoặc nội soi trên). EGD (nội soi trên) là một thủ tục cho phép nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe kiểm tra bên trong thực quản, dạ dày và tá tràng bằng nội soi. Chất này được dẫn vào miệng và cổ họng, sau đó đến thực quản, dạ dày và tá tràng. Nội soi cho phép nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe quan sát bên trong khu vực này của cơ thể, cũng như đưa các dụng cụ qua ống soi để lấy mẫu mô làm sinh thiết (nếu cần).

  • Soi đường kính. Soi ruột già là một thủ tục chẩn đoán cho phép nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe kiểm tra bên trong một phần ruột già và hữu ích trong việc xác định nguyên nhân gây tiêu chảy, đau bụng, táo bón, phát triển bất thường và chảy máu. Một ống ngắn, linh hoạt, có ánh sáng, gọi là ống soi đại tràng, được đưa vào ruột qua trực tràng. Ống soi thổi không khí vào ruột để làm phồng nó và giúp quan sát bên trong dễ dàng hơn.

Các thủ tục khác

  • Áp kế hậu môn trực tràng. Thử nghiệm này giúp xác định sức mạnh của các cơ ở trực tràng và hậu môn. Những cơ này thường thắt chặt để giữ khi đi tiêu và thư giãn khi đi tiêu. Áp kế hậu môn trực tràng rất hữu ích trong việc đánh giá các dị tật hậu môn trực tràng và bệnh Hirschsprung, trong số các vấn đề khác. Một ống nhỏ được đặt vào trực tràng để đo áp lực do các cơ vòng tạo ra ống tủy.

  • Áp kế thực quản. Thử nghiệm này giúp xác định sức mạnh của các cơ trong thực quản. Nó rất hữu ích trong việc đánh giá trào ngược dạ dày thực quản và những bất thường khi nuốt. Một ống nhỏ được dẫn vào lỗ mũi, sau đó đi vào cổ họng, và cuối cùng vào thực quản. Áp lực cơ thực quản tạo ra khi nghỉ sẽ được đo.

  • Theo dõi pH thực quản. Máy đo pH thực quản đo nồng độ axit bên trong thực quản. Nó rất hữu ích trong việc đánh giá bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD). Một ống nhựa mỏng được đặt vào lỗ mũi, dẫn xuống cổ họng, rồi đến thực quản. Ống dừng ngay trên cơ thắt thực quản dưới. Đây là phần kết nối giữa thực quản và dạ dày. Ở cuối ống bên trong thực quản là một bộ cảm biến đo độ pH, hoặc độ axit. Đầu kia của ống bên ngoài cơ thể được kết nối với một màn hình ghi lại mức độ pH trong khoảng thời gian 24 đến 48 giờ. Hoạt động bình thường được khuyến khích trong quá trình nghiên cứu và ghi nhật ký về các triệu chứng đã trải qua hoặc hoạt động có thể nghi ngờ là trào ngược, chẳng hạn như nôn hoặc ho, và bất kỳ lượng thức ăn nào của bệnh nhân. Bạn cũng nên ghi lại thời gian, loại và lượng thức ăn đã ăn. Các chỉ số pH được đánh giá và so sánh với hoạt động của bệnh nhân trong khoảng thời gian đó.

  • Nội soi viên nang. Nội soi bằng viên nang giúp các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe kiểm tra ruột non, vì các thủ tục truyền thống, chẳng hạn như nội soi trên hoặc nội soi đại tràng, không thể tiếp cận phần này của ruột. Quy trình này rất hữu ích trong việc xác định nguyên nhân gây chảy máu, phát hiện polyp, bệnh viêm ruột, loét và khối u của ruột non. Một thiết bị cảm biến được đặt trên bụng của bệnh nhân và thuốc PillCam được nuốt vào. PillCam đi qua đường tiêu hóa một cách tự nhiên trong khi truyền hình ảnh video đến máy ghi dữ liệu. Máy ghi dữ liệu được thắt vào thắt lưng của bệnh nhân bằng đai trong 8 giờ. Hình ảnh của ruột non được tải xuống máy tính từ máy ghi dữ liệu. Các hình ảnh được nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe xem xét trên màn hình máy tính. Thông thường, PillCam đi qua đại tràng và được thải trừ qua phân trong vòng 24 giờ.

  • Áp kế dạ dày. Thử nghiệm này đo hoạt động điện và cơ trong dạ dày. Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe truyền một ống mỏng xuống cổ họng của bệnh nhân vào dạ dày. Ống này chứa một dây dẫn đo hoạt động điện và cơ của dạ dày khi nó tiêu hóa thức ăn và chất lỏng. Điều này giúp cho biết dạ dày đang hoạt động như thế nào và nếu có bất kỳ sự chậm trễ nào trong quá trình tiêu hóa.

  • Chụp mật tụy cộng hưởng từ (MRCP). Xét nghiệm này sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) để thu được hình ảnh của đường mật. Máy sử dụng sóng radio và nam châm để quét các cơ quan và mô bên trong.