Hội chứng động kinh ở trẻ em

Posted on
Tác Giả: Clyde Lopez
Ngày Sáng TạO: 18 Tháng Tám 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 1 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Hiểu lầm tai hại về bệnh động kinh ở trẻ nhỏ | VTC Now
Băng Hình: Hiểu lầm tai hại về bệnh động kinh ở trẻ nhỏ | VTC Now

NộI Dung

Các hội chứng động kinh ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh và trẻ em, và được đặc trưng bởi nhiều cơn động kinh và các triệu chứng khác như chậm phát triển.

Co thắt ở trẻ sơ sinh (Hội chứng West)

Chứng co thắt ở trẻ sơ sinh thường bắt đầu từ 3 đến 12 tháng tuổi và thường chấm dứt khi trẻ được 2 đến 4 tuổi. Các cơn co thắt xuất hiện như một cú giật hoặc giật mạnh đột ngột sau đó cứng lại. Thường thì cánh tay của trẻ hướng ra ngoài và đầu gối kéo lên khi cơ thể uốn cong về phía trước.

Mỗi cơn co giật chỉ kéo dài một hoặc hai giây nhưng tái phát gần nhau thành một chuỗi.Đôi khi những cơn co thắt bị nhầm với đau bụng, nhưng những cơn đau bụng thường không xảy ra hàng loạt. Trẻ có nhiều khả năng bị co thắt ngay sau khi thức dậy, nhưng chúng cũng có thể xảy ra - hiếm khi - trong khi ngủ.

Co thắt ở trẻ sơ sinh là một dạng động kinh đặc biệt nghiêm trọng có thể dẫn đến phát triển kém, và trẻ có những triệu chứng này cần được đánh giá ngay lập tức. Điều trị chứng co thắt ở trẻ sơ sinh thường bao gồm liệu pháp steroid, một số loại thuốc chống co giật hoặc chế độ ăn ketogenic.


Hội chứng Doose (Chứng động kinh Astatic Myoclonic ở thời thơ ấu)

Myoclonic astatic epilepsy (MAE), còn được gọi là hội chứng Doose, là một hội chứng động kinh của thời thơ ấu, thường xuất hiện nhất ở độ tuổi từ 1 đến 5 và có các cơn co giật toàn thân. Trẻ em sẽ trải qua các cuộc tấn công rơi và co giật do nhìn chằm chằm, đôi khi kết hợp với té ngã. MAE là vô căn, có nghĩa là nguyên nhân vẫn chưa được xác định.

Mặc dù co giật MAE thường kháng thuốc, nhưng thuốc chống co giật valproate và levetiracetam có thể hữu ích. Tuy nhiên, nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế độ ăn ketogenic và chế độ ăn kiêng Atkins sửa đổi thường là những phương pháp điều trị hiệu quả nhất.

Bệnh động kinh Rolandic lành tính (BRE)

Động kinh rolandic lành tính, còn được gọi là BRE hoặc động kinh lành tính có gai trung tâm (BECTS), là một hội chứng động kinh ảnh hưởng đến trẻ em. Nó chiếm khoảng 15 phần trăm các trường hợp động kinh ở trẻ em.

Các cơn co giật xuất hiện như co giật, tê hoặc ngứa ran ở mặt hoặc lưỡi của trẻ, điều này có thể cản trở lời nói và gây chảy nước dãi. Cơn co giật lan rộng và trở thành cơn động kinh toàn thân. Trong nhiều trường hợp, cơn co giật BRE không thường xuyên, và chúng thường chỉ xảy ra vào ban đêm. Những cơn co giật này thường kéo dài không quá hai phút và đứa trẻ vẫn hoàn toàn tỉnh táo. BRE thường bắt đầu từ 6 đến 8 tuổi, và có nhiều khả năng ảnh hưởng đến trẻ em trai hơn trẻ em gái.


Nhiều trẻ em không dùng bất kỳ loại thuốc co giật nào cho BRE, và các cơn co giật gần như luôn dừng lại ở giai đoạn đầu tuổi vị thành niên. Nếu trẻ bị co giật vào ban ngày, nếu các cơn co giật làm gián đoạn giấc ngủ vào ban đêm, hoặc nếu trẻ bị khuyết tật đọc có thể liên quan đến BRE, bác sĩ có thể kê đơn levetiracetam hoặc oxcarbazepine.

Hội chứng Rasmussen

Hội chứng Rasmussen (còn được gọi là Rasmussen’s encephalitis) dường như là một quá trình tự miễn dịch khiến một bán cầu não bị viêm và xấu đi.

Hội chứng Rasmussen thường xuất hiện ở trẻ em từ 14 tháng đến 14 tuổi. Động kinh thường là triệu chứng đầu tiên xuất hiện. Suy nhược và các vấn đề thần kinh khác thường bắt đầu từ 1 đến 3 năm sau khi cơn động kinh bắt đầu.

Điều trị có thể ngăn chặn tình trạng viêm, nhưng không thể đảo ngược tổn thương. Các rối loạn khác (bao gồm các dạng viêm não khác, còn được gọi là viêm não) có thể giống hội chứng Rasmussen, vì vậy điều quan trọng là cha mẹ cần tham khảo ý kiến ​​của bác sĩ chuyên khoa.


Các cơn co giật liên quan đến hội chứng Rasmussen là cực kỳ khó hoặc không thể kiểm soát bằng thuốc. Ở nhiều trẻ em có tình trạng này, lựa chọn điều trị tốt nhất là phẫu thuật động kinh.

Hội chứng Lennox-Gastaut

Thường bắt đầu ở trẻ em trong độ tuổi từ 2 đến 6, hội chứng Lennox-Gastaut là bệnh vô căn - không rõ nguyên nhân - và thường thấy ở trẻ em có vấn đề về phát triển não hoặc tổn thương não mắc phải.

Trẻ em mắc hội chứng Lennox-Gastaut bị chậm phát triển và có biểu hiện điện não đồ (EEG) đặc biệt với sóng và sóng chậm.

Các loại co giật gặp trong hội chứng Lennox-Gastaut bao gồm co giật mất trương lực, trương lực, trương lực và không điển hình. Do co giật mất trương lực khiến trẻ ngã xuống đất nên nhiều trẻ đã đội mũ bảo hiểm để bảo vệ răng và mặt.

Quản lý có thể là một thách thức và có thể bao gồm thuốc chống co giật, kích thích thần kinh và một số loại liệu pháp ăn kiêng.

Trạng thái điện Động kinh khi ngủ (ESES)

Trạng thái điện động kinh khi ngủ (ESES) mô tả hoạt động co giật trở nên thường xuyên hơn trong khi ngủ và được thấy trong hơn một nửa điện não đồ khi ngủ của trẻ.

ESES được tìm thấy ở trẻ em trong độ tuổi đi học, và nó có thể ảnh hưởng đến các trẻ khác nhau theo những cách khác nhau và ở các mức độ khác nhau. Những người bị ESES thường xuyên, nhưng không phải lúc nào cũng bị co giật và loại của họ có thể khác nhau. Trẻ em mắc chứng ESES thường bị suy thoái nhận thức - suy giảm khả năng học hỏi và làm những việc mà chúng đã biết cách làm.

Hoạt động co giật liên tục này có thể dẫn đến khó nói hoặc hiểu lời nói, lo lắng về hành vi, khó tập trung hoặc các vấn đề về chuyển động của một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể.

Khi hoạt động co giật được kết hợp với một đặc điểm khác của ESES, nó thường được gọi là tăng đột biến và sóng liên tục trong khi ngủ (CSWS). Có những hội chứng khác cụ thể hơn như hội chứng Landau-Kleffner (LKS), trong đó trẻ em có ESES trên điện não đồ và đặc biệt gặp khó khăn với ngôn ngữ và hiểu âm thanh.

Các loại thuốc thường được sử dụng để điều trị co giật có thể được sử dụng để điều trị ESES, nhưng bác sĩ có thể cần thêm các liệu pháp khác như benzodiazepin liều cao và steroid. Giám sát chặt chẽ chức năng nhận thức của trẻ là điều cần thiết.

Hội chứng Sturge-Weber

Hội chứng Sturge-Weber (SWS) là một chứng rối loạn thần kinh da (ảnh hưởng đến não và da) có thể nhận biết được bằng “vết rượu vang” (được gọi là u mạch) trên vùng trán xung quanh mắt.

Trẻ bị SWS có thể bị co giật, yếu một bên cơ thể (liệt nửa người), chậm phát triển và tăng áp lực trong mắt (bệnh tăng nhãn áp).

Co giật xảy ra ở hơn 80 phần trăm trẻ em được chẩn đoán với SWS. Khoảng 25% trong số những trẻ em đó đạt được kiểm soát co giật hoàn toàn bằng thuốc, 50% kiểm soát được một phần cơn co giật và 25% không đáp ứng với thuốc. Trong trường hợp nghiêm trọng, bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật động kinh.

Bệnh động kinh suy nhược cơ vị thành niên

Những người bị chứng động kinh myoclonic vị thành niên (JME) có các cơn co giật myoclonic, đặc trưng bởi những cú giật nhỏ và nhanh chóng của cánh tay, vai hoặc đôi khi ở chân. Những điều này thường xảy ra ngay sau khi thức dậy. Các cơn giật myoclonic đôi khi được theo sau bởi một cơn co giật trương lực hoặc co giật trương lực cơ có thể xảy ra độc lập. Co giật vắng mặt cũng có thể xảy ra, khi bệnh nhân dường như “chết ngất” trong một khoảng thời gian ngắn có thể kéo dài từ vài giây đến vài phút.

Co giật JME có thể bắt đầu từ cuối thời thơ ấu đến đầu tuổi trưởng thành, thường vào khoảng thời gian dậy thì. Ở hầu hết bệnh nhân, cơn co giật được kiểm soát tốt khi dùng thuốc lâu dài.