Bệnh võng mạc ở trẻ sinh non

Posted on
Tác Giả: Marcus Baldwin
Ngày Sáng TạO: 16 Tháng Sáu 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 15 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Bệnh võng mạc ở trẻ sinh non - ThuốC
Bệnh võng mạc ở trẻ sinh non - ThuốC

NộI Dung

Bệnh võng mạc do sinh non, còn được gọi là ROP, là một bệnh ảnh hưởng đến võng mạc của mắt. ROP ảnh hưởng đến các mạch máu trên võng mạc trong mắt của trẻ sơ sinh và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù ở trẻ em.

Tổng quat

Khi mang thai, các mạch máu trong mắt của em bé bắt đầu phát triển khi thai được 16 tuần. Vào khoảng tuần thứ 34 của thai kỳ, các mạch máu trong mắt đã phát triển đủ để võng mạc được cung cấp máu tốt.

Khi trẻ được sinh ra sớm, các mạch máu trên võng mạc chưa phát triển hoàn thiện. Sau khi sinh, các mạch máu có thể bắt đầu phát triển nhanh đến mức làm hỏng võng mạc. Bệnh võng mạc do sinh non (ROP) là tên gọi cho sự phát triển không đúng của các mạch máu trên võng mạc và những tổn thương do sự phát triển đó gây ra.

Ở hầu hết các thai nhi phát triển ROP, sự phát triển của các mạch máu võng mạc sẽ tự chậm lại và thị lực sẽ phát triển bình thường. Tuy nhiên, một số trẻ sinh non phát triển ROP nghiêm trọng.


Các giai đoạn

Bệnh võng mạc do sinh non được phân loại theo các giai đoạn khác nhau. Các giai đoạn cao hơn của ROP thường nghiêm trọng hơn và có nhiều khả năng gây mù hoặc các vấn đề về thị lực lâu dài. Các giai đoạn thấp của ROP ít nghiêm trọng hơn; hầu hết trẻ em bị ROP giai đoạn I và II sẽ cải thiện mà không cần điều trị và sẽ có thị lực bình thường.

  • Giai đoạn 1: Sự phát triển bất thường nhẹ của các mạch võng mạc. Thường sẽ tốt hơn mà không cần bất kỳ điều trị nào và không có tác dụng lâu dài.
  • Giai đoạn 2: Sự phát triển của các mạch võng mạc là bất thường vừa phải. Thường sẽ tốt hơn mà không cần bất kỳ điều trị nào và không có tác dụng lâu dài.
  • Giai đoạn 3: Sự phát triển của các mạch võng mạc là bất thường nghiêm trọng. Trẻ sơ sinh bị ROP giai đoạn 3 có thể cần điều trị ROP và có nguy cơ cao mắc các vấn đề về thị lực lâu dài. Trẻ sơ sinh mắc bệnh cộng thêm, một dấu hiệu cho thấy ROP đang tiến triển nhanh, thường cần điều trị ở giai đoạn này.
  • Giai đoạn 4: Bong võng mạc một phần. Thường cần điều trị và có thể dẫn đến các vấn đề về thị lực lâu dài hoặc mù lòa.
  • Giai đoạn 5: Hoàn toàn bong võng mạc. Cần điều trị và có thể dẫn đến các vấn đề về thị lực lâu dài hoặc mù lòa.

Chẩn đoán

Bệnh võng mạc do sinh non được chẩn đoán khi khám mắt. Để chuẩn bị cho kỳ thi, thuốc nhỏ mắt được sử dụng để làm giãn đồng tử của em bé. Trong quá trình kiểm tra, bác sĩ nhãn khoa sẽ xem xét kỹ võng mạc để đánh giá xem các mạch có phát triển thích hợp hay không và nếu không, phần nào của võng mạc có dấu hiệu bị trục trặc.


Không phải tất cả trẻ sinh non đều cần khám để kiểm tra ROP. Các bệnh viện khác nhau trong đó trẻ được sàng lọc ROP, nhưng hầu hết trẻ sinh trước 31 tuần tuổi thai sẽ phải khám ít nhất một lần để kiểm tra ROP. Nếu kết quả khám không kết quả hoặc mắt trẻ có dấu hiệu của ROP, thì các cuộc kiểm tra tái khám sẽ được lên lịch định kỳ.

Sự đối xử

Hầu hết các trường hợp bệnh võng mạc do sinh non sẽ tự khỏi và không cần điều trị.

Trong ROP giai đoạn 3 trở lên, có thể cần điều trị để ngăn chặn sự phát triển bất thường của các mạch máu trên võng mạc hoặc để sửa chữa bong võng mạc. Các hình thức điều trị bao gồm áp lạnh, liệu pháp laser và phẫu thuật võng mạc.

  • Phương pháp áp lạnh: Phương pháp áp lạnh sử dụng nhiệt độ lạnh để đóng băng các phần của võng mạc bị ảnh hưởng bởi ROP, giúp ngăn chặn sự phát triển quá mức của các mạch máu không lành mạnh trong mắt.
  • Liệu pháp laser: Giống như liệu pháp áp lạnh, liệu pháp laser được sử dụng để ngăn chặn sự phát triển quá mức của các mạch không lành mạnh trên võng mạc. Tia laser được sử dụng để tạo ra những vết bỏng nhỏ trên các phần của võng mạc bị ảnh hưởng bởi ROP. Liệu pháp laser thường có kết quả tốt hơn liệu pháp áp lạnh và được sử dụng thường xuyên hơn, nhưng liệu pháp áp lạnh vẫn có thể được sử dụng trong một số trường hợp nhất định. Để bảo tồn thị lực trung tâm, một số thị lực ngoại vi có thể bị mất khi điều trị bằng phương pháp áp lạnh và điều trị bằng laser.
  • Phẫu thuật võng mạc: Trong giai đoạn 4 và 5 của bệnh võng mạc do sinh non, võng mạc đã bắt đầu tách ra hoặc tách ra hoàn toàn khỏi mắt. Bệnh bong võng mạc một phần có thể tự khỏi hoặc có thể phải phẫu thuật. Võng mạc tách rời hoàn toàn hầu như luôn luôn cần phải phẫu thuật.

Ảnh hưởng lâu dài

Có đến 90% trẻ sinh trước 31 tuần sẽ phát triển một số dạng ROP. Hầu hết các trường hợp ROP đều nhẹ và không có hậu quả lâu dài. Trẻ em bị ROP khi còn nhỏ có thể bị cận thị, hoặc có thể bị lác hoặc nhược thị.


Trong trường hợp ROP nặng, có thể bị mất thị lực toàn bộ. Các bệnh viện có khả năng chẩn đoán và điều trị ROP tốt hơn nhiều trước khi nó gây mù lòa, nhưng những trường hợp ROP nghiêm trọng vẫn có thể gây mất thị lực.

Sử dụng oxy và ROP

Oxy bổ sung thường được sử dụng với hỗ trợ hô hấp để giúp duy trì độ bão hòa oxy trong máu của em bé ở mức khỏe mạnh. Người lớn và trẻ đủ tháng cần giữ độ bão hòa oxy cao ở những năm 90 để khỏe mạnh, nhưng trẻ sinh non thì khác.

Khi dịch vụ chăm sóc trẻ sinh non lần đầu tiên trở nên khả thi về mặt công nghệ, các bác sĩ và y tá đã làm việc chăm chỉ để giữ độ bão hòa oxy của trẻ sơ sinh ở mức bình thường đối với người lớn. Sau nhiều nghiên cứu, người ta phát hiện ra rằng trẻ sơ sinh có độ bão hòa oxy được giữ ở mức cao có nguy cơ phát triển ROP cao hơn nhiều. Các bác sĩ và y tá có thể cai mức oxy một cách an toàn để giữ cho độ bão hòa oxy thấp tới 83% ở trẻ sơ sinh, giúp ngăn ngừa ROP.

  • Chia sẻ
  • Lật
  • E-mail
  • Bản văn