Lịch sử của phẫu thuật thẩm mỹ

Posted on
Tác Giả: Virginia Floyd
Ngày Sáng TạO: 11 Tháng Tám 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 14 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Sự thật đáng sợ về phẫu thuật thẩm mỹ ở Hàn Quốc
Băng Hình: Sự thật đáng sợ về phẫu thuật thẩm mỹ ở Hàn Quốc

NộI Dung

Có lẽ ngay từ thuở sơ khai, loài người đã tích cực tham gia vào việc theo đuổi sự hoàn thiện bản thân. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi phẫu thuật thẩm mỹ có thể là một trong những phương pháp chữa bệnh lâu đời nhất thế giới. Có tài liệu về việc sử dụng các phương tiện phẫu thuật để điều chỉnh các vết thương trên khuôn mặt có từ hơn 4.000 năm trước.

Phẫu thuật thẩm mỹ bắt đầu bằng ghép da ở Ấn Độ cổ đại

Các bác sĩ ở Ấn Độ cổ đại đã sử dụng ghép da để phẫu thuật tái tạo ngay từ năm 800 trước Công nguyên. Sau đó, ở các nước châu Âu, những tiến bộ về phẫu thuật thẩm mỹ đã đến rất chậm. Tuy nhiên, y học phương đông đã sẵn sàng hơn cho phẫu thuật thẩm mỹ, và có rất nhiều sự cố được ghi nhận về ghép da và phẫu thuật tái tạo trong suốt lịch sử ở khu vực đó trên thế giới.

Tiến bộ tổng thể trong phẫu thuật thẩm mỹ, giống như hầu hết y học, đã chậm lại trong vài nghìn năm tới, khi các kỹ thuật được sử dụng ở Ấn Độ được du nhập vào phương Tây và sau đó được cải tiến và điều chỉnh cho các ứng dụng mới. Tuy nhiên, có nhiều tiến bộ trong y học trong thời kỳ Hy Lạp-La Mã, và tiến bộ đó đã được ghi lại trong các văn bản cổ đại được phổ biến rộng rãi trong suốt nền văn minh.


Chính trong thời kỳ này, nhà văn y học La Mã Aulus Cornelius Celsus đã viết De Medicina trong đó đã đặt ra các phương pháp phẫu thuật để tái tạo lại tai, môi và mũi. Sau đó, trong thời kỳ đầu của Byzantine, Oribasius đã biên soạn một từ điển bách khoa toàn thư về y học hoàn chỉnh có tên Giáo đường Do Thái. Tác phẩm 70 tập này có nhiều đoạn dành riêng cho các kỹ thuật tái tạo để sửa chữa các khuyết điểm trên khuôn mặt.

Thời Trung cổ và Phục hưng

Mặc dù việc thực hành phẫu thuật tái tạo vẫn tiếp tục trong suốt đầu thời Trung cổ, những phát triển đáng kể hơn nữa đã đi vào bế tắc tương đối do sự sụp đổ của La Mã và sự truyền bá của Cơ đốc giáo. Phần lớn, khoa học đã nhường chỗ cho thần bí và tôn giáo. Trên thực tế, tại một thời điểm trong khoảng thời gian này, Giáo hoàng Innocent III đã tuyên bố rằng phẫu thuật dưới mọi hình thức đều bị luật Giáo hội nghiêm cấm.

Phần lớn, việc theo đuổi kiến ​​thức khoa học đã được thay thế bằng sự tập trung vào các mối quan tâm cá nhân và tâm linh hơn. Ngoài ra, sự an toàn của bệnh nhân phẫu thuật còn bị tổn hại thêm do thiếu các tiêu chuẩn về vệ sinh và sạch sẽ. Tuy nhiên, một số tiến bộ nhỏ đã được thực hiện, bao gồm cả sự phát triển từ thế kỷ thứ mười của một thủ thuật sửa khe hở môi.


Trong thời kỳ Phục hưng, có nhiều tiến bộ đáng kể trong khoa học và công nghệ, dẫn đến sự phát triển của các kỹ thuật phẫu thuật an toàn và hiệu quả hơn. Một văn bản Hồi giáo thế kỷ mười lăm có tựa đề Phẫu thuật hoàng gia được viết bởi Serafeddin Sabuncuoglu và bao gồm 191 chủ đề phẫu thuật. Tài liệu về phẫu thuật hàm mặt và phẫu thuật mí mắt được thảo luận. Nó cũng bao gồm một phác đồ điều trị nữ hóa tuyến vú được cho là nền tảng cho phương pháp phẫu thuật thu nhỏ ngực hiện đại.

Tiến bộ Sinh ra từ Chiến tranh

Trong suốt thế kỷ XVII, phẫu thuật thẩm mỹ lại đang trên đà suy giảm, nhưng đến cuối thế kỷ XVIII, con lắc đã xoay theo hướng khác. Tuy nhiên, những bước tiến lớn tiếp theo của phẫu thuật thẩm mỹ phải đến thế kỷ 20, khi thương vong của chiến tranh khiến phẫu thuật thẩm mỹ tái tạo trở thành nhu cầu thiết yếu đối với nhiều binh sĩ. Trên thực tế, chính Thế chiến thứ nhất đã đưa phẫu thuật thẩm mỹ lên một tầm cao mới trong cơ sở y tế.


Các bác sĩ quân y được yêu cầu điều trị nhiều vết thương trên mặt và đầu do vũ khí hiện đại gây ra, những trường hợp như vậy hiếm khi được thấy trước đây. Những vết thương nghiêm trọng này đòi hỏi những cải tiến mới dũng cảm trong các quy trình phẫu thuật tái tạo. Một số bác sĩ phẫu thuật lành nghề nhất của Châu Âu đã tận tâm thực hiện các phương pháp của họ để khôi phục sự toàn vẹn cho binh lính của quốc gia họ trong và sau chiến tranh.

Trên thực tế, vào khoảng thời gian này, các bác sĩ phẫu thuật bắt đầu nhận ra đầy đủ ảnh hưởng tiềm tàng mà ngoại hình cá nhân của một người có thể tạo ra đối với mức độ thành công trải qua trong cuộc đời của họ. Vì sự hiểu biết này, phẫu thuật thẩm mỹ bắt đầu ra đời như một khía cạnh được coi trọng hơn của phẫu thuật thẩm mỹ.

Tiến bộ này cũng mang lại sự hiểu biết nhiều hơn về gây mê và phòng chống nhiễm trùng, cho phép các bác sĩ phẫu thuật thực hiện nhiều loại thủ thuật ngày càng phức tạp hơn. Các quy trình này bao gồm các trường hợp phẫu thuật đầu tiên được ghi nhận thực sự chỉ mang tính chất “thẩm mỹ”, chẳng hạn như các thủ thuật nâng mũi và nâng ngực đầu tiên.

Lịch sử phẫu thuật thẩm mỹ ở Hoa Kỳ

Trong khi nhiều tiến bộ y học này bắt nguồn từ châu Âu, có những bước tiến phẫu thuật khác đang được thực hiện ở Mỹ, bao gồm ca phẫu thuật hở hàm ếch đầu tiên vào năm 1827, được thực hiện bởi Tiến sĩ John Peter Mettauer bằng dụng cụ phẫu thuật do chính ông thiết kế. , phải đến đầu thế kỷ 20, phẫu thuật thẩm mỹ hiện đại mới được công nhận là chuyên ngành y tế của riêng mình.

Năm 1907, Tiến sĩ Charles Miller đã viết văn bản đầu tiên được viết đặc biệt về phẫu thuật thẩm mỹ, có tựa đề Sửa chữa các khuyết tật về lôngVăn bản, mặc dù đi trước thời đại ở một số khía cạnh, nhưng vẫn bị nhiều bác sĩ phẫu thuật nói chung chỉ trích và cáo buộc là “lang băm”. Thật không may, thái độ này phổ biến trong cộng đồng y tế, những người phần lớn có xu hướng xem các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ nói chung, bao gồm cả Tiến sĩ Miller, là lang băm hoặc “lang băm”.

Các bác sĩ phẫu thuật khác của Hoa Kỳ được chú ý trong thời gian này bao gồm Tiến sĩ Vilray P. Blair, Tiến sĩ William Luckett và Tiến sĩ Frederick Strange Kolle. Tiến sĩ Blair đã thực hiện lần kiểm tra kín đầu tiên của nhiệm vụ vào năm 1909 và xuất bản Phẫu thuật và các bệnh về miệng và hàm vào năm 1912, trong khi Tiến sĩ Luckett mô tả cách chỉnh sửa tai lồi vào năm 1910, và Tiến sĩ Kolle đã xuất bản văn bản của mình, Phẫu thuật tạo hình và thẩm mỹ, một năm sau vào năm 1911.

Tầm quan trọng của một thể chế Hoa Kỳ

Một cơ sở đóng một vai trò rất quan trọng trong sự tiến bộ và cải tiến của phẫu thuật thẩm mỹ, và phẫu thuật nói chung, là Johns Hopkins. Chính tại đó, bác sĩ William Stewart Halsted đã tạo ra chương trình đào tạo phẫu thuật tổng quát đầu tiên tại Hoa Kỳ. Năm 1904, ông xuất bảnViệc đào tạo bác sĩ phẫu thuật, đặt nền móng cho cái đã trở thành nguyên mẫu cho tất cả các chương trình đào tạo phẫu thuật hiện đại. Với điều này, Hoa Kỳ cuối cùng có thể khẳng định mức độ tinh vi trong phẫu thuật ngang bằng với châu Âu. Không lâu trước khi Hoa Kỳ bắt đầu vượt qua phần còn lại của thế giới, đặc biệt là khi nói đến chủ đề chuyên môn hóa trong lĩnh vực phẫu thuật.

Johns Hopkins cũng là quê hương của Dr.John Staige Davis, người được hầu hết mọi người coi là người Mỹ đầu tiên chỉ cống hiến cho phẫu thuật thẩm mỹ. Ông đã dành nhiều năm cuộc đời để thành lập các bộ phận chuyên môn trong lĩnh vực phẫu thuật thẩm mỹ. Năm 1916, ông đã đóng góp một bài báo mang tính bước ngoặt cho Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ trong đó mô tả vai trò của phẫu thuật thẩm mỹ trong cơ sở y tế, một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyên môn hóa trong lĩnh vực này.

Những năm 1940 và '50

Năm 1946, rõ ràng đã đến lúc xuất bản một tạp chí khoa học dành riêng cho các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ. Vào tháng 7 năm đó, số đầu tiên của Tạp chí Phẫu thuật Tạo hình và Tái tạo đã trở thành hiện thực. Kể từ đó, tạp chí đã liên tục trở thành một diễn đàn phổ biến kiến ​​thức và những khám phá quan trọng giữa các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ và các đồng nghiệp y khoa của họ, tất cả nhằm mang lại lợi ích cho bệnh nhân.

Với chứng nhận của hội đồng quản trị và sự ra đời của tạp chí y khoa riêng về phẫu thuật thẩm mỹ, phẫu thuật thẩm mỹ đã được tích hợp hoàn toàn vào cơ sở y tế vào năm 1950, nơi nó bắt đầu đi vào nhận thức của công chúng. Các bệnh viện ngoài chiến trường trong Chiến tranh Triều Tiên thậm chí còn có nhiều tiến bộ hơn trong phẫu thuật tái tạo, bao gồm cả kỹ thuật nối dây bên trong để xử lý gãy xương mặt và sử dụng cánh xoay để điều chỉnh các vết thương và biến dạng da lớn.

Phẫu thuật thẩm mỹ hiện đại

Lịch sử hiện đại của phẫu thuật thẩm mỹ thực sự bắt đầu hình thành vào những năm 1960 và 1970. Cũng có nhiều phát triển khoa học quan trọng trong thời gian này. Silicone là một chất mới được tạo ra đang ngày càng phổ biến như một chất chủ yếu của một số quy trình phẫu thuật thẩm mỹ. Ban đầu, nó được sử dụng để điều trị các khuyết điểm trên da. Sau đó, vào năm 1962, Tiến sĩ Thomas Cronin đã tạo ra và công bố một thiết bị cấy ghép ngực mới được làm từ silicone. Trong hơn một thập kỷ tiếp theo, mô cấy silicone đã được phát triển để sử dụng cho hầu hết các bộ phận có thể tưởng tượng được trên khuôn mặt và cơ thể.

Các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ đã đi đầu trong lĩnh vực y tế, bao gồm Tiến sĩ Hal B. Jennings, người được bổ nhiệm làm Bác sĩ phẫu thuật Tổng quát vào năm 1969, và một người khác đã đoạt giải Nobel.

Vào những năm 1980, các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ và những người ủng hộ phẫu thuật thẩm mỹ đã tạo ra một cú hích lớn để mở rộng nhận thức của cộng đồng và cải thiện nhận thức của công chúng về phẫu thuật thẩm mỹ. Sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng thông tin có sẵn cho người tiêu dùng, cùng với sự bùng nổ kinh tế của những năm 1980, bắt đầu khiến phẫu thuật thẩm mỹ dễ tiếp cận hơn với giới bình dân ở Mỹ.

Tăng trưởng tiếp tục trong những năm 1990, bất chấp các vấn đề do cải cách chăm sóc sức khỏe gây ra, khiến khoản bồi hoàn từ các công ty bảo hiểm cho công việc tái thiết giảm mạnh. Nhiều bác sĩ phẫu thuật buộc phải tập trung hơn vào công việc thẩm mỹ để tiếp tục hành nghề, và một số quyết định từ bỏ hoàn toàn phẫu thuật tái tạo.

Đáng ngạc nhiên là cuộc tranh cãi ngày càng tăng về việc cấy ghép ngực bằng silicon dường như không ngăn cản được số lượng ngày càng tăng bệnh nhân tìm đến các thủ thuật thẩm mỹ. Sau đó, vào năm 1998, Tổng thống Bill Clinton đã ký một dự luật trong đó có điều khoản yêu cầu các công ty bảo hiểm chi trả chi phí phẫu thuật tái tạo vú sau phẫu thuật cắt bỏ vú.

Phẫu thuật thẩm mỹ ngày nay

Vào những năm 2000, phẫu thuật thẩm mỹ đã trở nên phổ biến rộng rãi, và những tiến bộ y học đã tạo nên những kỳ tích tái tạo mà trước đây chỉ là mơ ước một ngày nào đó có thể là. Trong thời đại giao tiếp gia tăng như vũ bão, internet và truyền hình đã tham gia vào trò chơi và giờ đây chúng ta có thể xem về bất kỳ loại thủ thuật phẫu thuật thẩm mỹ nào ngay từ chính ngôi nhà của mình.

Hiện nay, xu hướng quan trọng nhất trong phẫu thuật thẩm mỹ là hướng tới các thủ thuật ít xâm lấn được thiết kế để ngăn chặn các dấu hiệu lão hóa có thể nhìn thấy được. Trên thực tế, các thủ thuật phổ biến nhất tại thời điểm này đều sử dụng các chất tiêm, chẳng hạn như chất làm đầy nếp nhăn trên khuôn mặt và đáng chú ý nhất là Botox. Người ta ước tính rằng có hơn 1,1 triệu mũi tiêm Botox được thực hiện ở Hoa Kỳ mỗi năm và con số đó đang tăng lên đều đặn.

Ngay cả giữa các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ, đã có một cuộc tranh luận đạo đức đáng kể liên quan đến sự ra đời của “Truyền hình thực tế về phẫu thuật thẩm mỹ”. Chương trình truyền hìnhTrang điểm cực kỳ, trong khi phổ biến, đã bị hủy bỏ vào năm 2007 và là chủ đề của một số tranh cãi. Bao nhiêu là quá nhiều, và loại giá trị nào chúng ta đang dạy thông qua lập trình như thế này?

Tất nhiên, một số chương trình khác với chủ đề phẫu thuật thẩm mỹ đã theo bước chân củaTrang điểm cực kỳ. Bất chấp những cuộc tranh luận đang diễn ra về giá trị của họ, chắc chắn rằng mọi người đang nghĩ và nói về phẫu thuật thẩm mỹ nhiều hơn bao giờ hết trong lịch sử của nó. Tất cả chúng ta đều được giáo dục tốt hơn với tư cách là người tiêu dùng về những rủi ro tiềm ẩn và phần thưởng của phẫu thuật thẩm mỹ, và sự kỳ thị từng gắn liền với phẫu thuật thẩm mỹ đang giảm dần theo chiều hướng này.

Một lời từ rất tốt

Rất may, một số phương tiện truyền thông đưa tin xung quanh phẫu thuật thẩm mỹ đã tập trung vào công việc tái tạo kỳ diệu mà các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ đang làm để cải thiện chất lượng cuộc sống cho những người không được giúp đỡ. Việc các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ dành thời gian và tài năng đáng kể để thực hiện phẫu thuật tái tạo cho những trẻ em bị dị tật bẩm sinh đang sống ở những vùng khó khăn trên thế giới ngày càng trở nên phổ biến. Đối với nhiều bác sĩ phẫu thuật, chính việc thực hành phẫu thuật thẩm mỹ đã cho phép họ cung cấp dịch vụ của mình cho những người trẻ kém may mắn đó.

Những màn thể hiện lòng vị tha này đã giúp cải thiện nhận thức của công chúng về phẫu thuật thẩm mỹ và thúc đẩy ý tưởng rằng phẫu thuật tái tạo và phẫu thuật thẩm mỹ có thể đồng hành với nhau để cải thiện chất lượng cuộc sống của nhiều người. Có lẽ điều này cũng là nguyên nhân một phần dẫn đến sự tăng trưởng đáng kinh ngạc về số lượng người phẫu thuật thẩm mỹ hàng năm.