NộI Dung
Máy khử rung tim cấy ghép (còn được gọi là máy khử rung tim cấy ghép [ICD]) là một thiết bị y tế được cấy ghép trong phẫu thuật để theo dõi nhịp tim của bạn và tự động điều trị cứu sống bạn nếu bạn đột ngột phát triển chứng loạn nhịp tim nguy hiểm được gọi là rung thất và nhịp nhanh thất. ICD được khuyến khích cho những người được biết là có nguy cơ đột tử cao do ngừng tim.ICD trông như thế nào
Hầu hết các ICD đều bao gồm một "máy phát" titan nhỏ, mỏng, chạy bằng pin, được đưa vào bên dưới da ngay dưới xương đòn và từ một đến ba "dây dẫn" (dây dẫn) được gắn vào máy phát. Các dây dẫn được đi qua các mạch máu gần đó và được định vị đến các vị trí cụ thể trong tim.
Gần đây, ICD dưới da đã được phát triển, trong đó cả máy phát điện và dây dẫn đều được đặt dưới da chứ không phải trong mạch máu hoặc tim. Loại ICD mới hơn này có một số ưu điểm và một số nhược điểm so với ICD tiêu chuẩn.
Máy phát ICD chứa pin, tụ điện, máy tính và các thiết bị điện tử phức tạp khác. Các đạo trình truyền các tín hiệu điện cực nhỏ của tim (tín hiệu điều khiển nhịp tim) trở lại máy phát điện, nơi chúng liên tục được phân tích. Nếu phát hiện một rối loạn nhịp tim nguy hiểm, ICD ngay lập tức xử lý nó bằng cách tạo nhịp hoặc gây sốc cho tim qua các dây dẫn.
ICD làm gì
ICD có thể thực hiện một số chức năng quan trọng. Bao gồm các:
Chuyển đổi tim mạch và khử rung tim: Công việc chính của ICD là ngăn chặn đột tử do tim ngừng đập do rung thất.
ICD sẽ tự động phát hiện sự khởi phát đột ngột của rung thất và trong vòng 10 đến 20 giây sẽ tự động cung cấp một phóng điện lớn (tức là một cú sốc) đến tim, làm ngừng loạn nhịp và cho phép nhịp tim bình thường trở lại.
ICD có hiệu quả cao. ICD được cấy ghép đúng cách, hoạt động tốt sẽ ngăn chặn những rối loạn nhịp tim đe dọa tính mạng hơn 99% thời gian.
Chống nhịp tim nhanh: Nhịp nhanh thất là một chứng rối loạn nhịp tim có thể đe dọa tính mạng khác được điều trị tự động bằng ICD. Trong nhiều trường hợp, nó nhanh và không ổn định đến mức phải điều trị bằng sốc, giống như điều trị rung thất. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nhịp nhanh thất có thể được chấm dứt bằng cách áp dụng các đợt tạo nhịp nhanh, ngắn. ICD thường được lập trình để cung cấp một số trình tự của loại nhịp tim chống nhịp tim nhanh này khi nhịp tim nhanh thất xảy ra, nhằm cố gắng ngăn chặn rối loạn nhịp tim mà không gây sốc. Nếu nhịp chống nhịp tim nhanh không ngăn được rối loạn nhịp tim, thì một cú sốc sẽ tự động được đưa ra.
Nhịp tim chậm: Ngoài khả năng chấm dứt chứng loạn nhịp tim gây chết người, ICD cũng có thể hoạt động như máy điều hòa nhịp tim tiêu chuẩn, để ngăn chặn nhịp tim quá chậm (nhịp tim chậm).
Liệu pháp tái đồng bộ tim:Một số ICD chuyên biệt, ngoài việc điều trị rối loạn nhịp tim nhanh và chậm, còn có thể cung cấp liệu pháp tái đồng bộ tim (CRT), có thể cải thiện các triệu chứng ở những người bị suy tim.
Theo dõi và lưu trữ điện tâm đồ: ICD có khả năng theo dõi nhịp tim rộng rãi mọi lúc và lưu trữ điện tâm đồ từ bất kỳ rối loạn nhịp tim bất thường nào, bao gồm bất kỳ cơn nào cần điều trị. Hầu hết các ICD hiện đại đều có khả năng truyền các điện tâm đồ này không dây qua internet để bác sĩ có thể xem xét bất kỳ rối loạn nhịp tim nào có thể đã xảy ra và sau đó thực hiện bất kỳ điều chỉnh cần thiết nào trong chức năng của ICD.
Tất cả ICD đều "có thể lập trình", có nghĩa là với một thiết bị lập trình đặc biệt giao tiếp không dây với ICD, bác sĩ có thể dễ dàng thay đổi cách thức hoạt động của thiết bị bất cứ khi nào cần điều chỉnh cài đặt của nó.
Ai nên nhận ICD
ICD được chỉ định ở nhiều người có nguy cơ tử vong hoặc thương tật cao do các cơn nhịp nhanh thất hoặc rung thất. Thông thường, đây là những người mắc bệnh tim tiềm ẩn nghiêm trọng. Tuy nhiên, một số người bị rối loạn tim di truyền có thể tăng nguy cơ đột tử do rối loạn nhịp tim, ngay cả khi họ khá khỏe mạnh. Ví dụ, những người mắc hội chứng QT dài hoặc hội chứng Brugada đôi khi được điều trị bằng ICD.
Bạn có nên mua một máy khử rung tim cấy ghép?Chèn
Phẫu thuật cấy ICD được coi là ít xâm lấn và thường được thực hiện bởi bác sĩ tim mạch, sử dụng phương pháp gây tê tại chỗ, trong phòng thí nghiệm thông tim. Một vết rạch nhỏ được thực hiện bên dưới xương đòn và các dây dẫn được đưa vào và định vị vào tim bằng phương pháp soi huỳnh quang (một "video" chụp X-quang) làm hướng dẫn. Sau đó, các đạo trình được gắn vào máy phát ICD, máy phát được đặt bên dưới da, và vết mổ được đóng lại.
Khi ICD đã được cấy ghép, bác sĩ có thể kiểm tra thiết bị để đảm bảo rằng nó sẽ hoạt động như thiết kế, nếu và khi nào xảy ra ngừng tim. Điều này được thực hiện bằng cách đưa bệnh nhân vào giấc ngủ nhẹ với một loại thuốc an thần tác dụng ngắn, sau đó gây rối loạn nhịp tim và cho phép ICD tự động phát hiện và ngăn chặn cơn rối loạn nhịp tim.
Quy trình đặt vòng thường mất khoảng một giờ hoặc lâu hơn, và trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân có thể về nhà ngay trong ngày.
Các biến chứng
Hầu hết những người nhận ICD không có biến chứng nghiêm trọng. Tuy nhiên, như với bất kỳ loại liệu pháp xâm lấn nào, các biến chứng vẫn xảy ra.
Các biến chứng phẫu thuật bao gồm nhiễm trùng, chảy máu và tổn thương mạch máu trong quá trình chèn chì. Các biến chứng liên quan đến chính ICD bao gồm nhận các cú sốc không phù hợp, phá vỡ dây dẫn và xói mòn máy phát điện.
Theo sát
Sau khi cấy ICD, bác sĩ sẽ gặp bệnh nhân sau 4 đến 6 tuần để đảm bảo vết mổ đã lành hoàn toàn. Theo dõi dài hạn thường yêu cầu đến văn phòng từ hai đến bốn lần mỗi năm. Trong tất cả các lần truy cập này, ICD được "thẩm vấn" không dây bằng bộ lập trình. Cuộc thẩm vấn này cung cấp cho bác sĩ thông tin quan trọng về cách ICD đang hoạt động, tình trạng của pin, trạng thái của các dây dẫn và liệu ICD có cần thiết để cung cấp cả liệu pháp tạo nhịp và liệu pháp sốc hay không.
Nhiều ICD hiện đại có khả năng gửi không dây loại thông tin này đến bác sĩ từ nhà, thông qua Internet. Tính năng "thẩm vấn từ xa" này cho phép bác sĩ đánh giá ICD của một người bất cứ khi nào cần thiết mà không yêu cầu bệnh nhân đến văn phòng.
Một lời từ rất tốt
ICD được thiết kế để theo dõi nhịp tim của bạn liên tục và nếu rối loạn nhịp tim có khả năng gây tử vong xảy ra, để tự động đưa ra phương pháp điều trị cứu sống. Đối với những người có nguy cơ đột tử đặc biệt cao, ICD nên được xem xét cẩn thận.
- Chia sẻ
- Lật