NộI Dung
Một loại liệu pháp apitherapy (từ tiếng Latinh api, Ý nghĩa con ong), liệu pháp đốt ong bao gồm sử dụng nọc ong thông qua vết đốt của ong sống hoặc tiêm vào các điểm cụ thể trên cơ thể. Những người chữa bệnh đã sử dụng liệu pháp ong đốt trong hơn 5.000 năm để điều trị một loạt các tình trạng sức khỏe bao gồm đau đầu, đau khớp và phát ban trên da.Nọc ong, còn được gọi là apitoxin, chứa nhiều hợp chất hoạt tính sinh học, axit amin và enzym có đặc tính chống viêm, giảm đau và thúc đẩy quá trình chữa lành. Ngoài ra còn có các tác dụng điều hòa miễn dịch trên cơ thể do chính vết đốt của ong. Phản ứng này được lý thuyết là lý do cho tác dụng điều trị của nó trong một số điều kiện nhất định do phản ứng của hệ thống miễn dịch mất cân bằng (ví dụ, viêm khớp dạng thấp, bệnh vẩy nến, bệnh chàm).
Ngày nay, nọc ong đang được nghiên cứu để điều trị các tình trạng sau:
- Viêm khớp dạng thấp (RA)
- bệnh Parkinson
- Bệnh Alzheimer
- Bệnh xơ cứng teo cơ bên (còn gọi là ALS hoặc bệnh Lou Gehrig)
- Bệnh đa xơ cứng (MS)
- Bệnh chàm
- Bệnh vẩy nến
Lợi ích sức khỏe
Liệu pháp đốt ong đã cho thấy nhiều hứa hẹn, mặc dù hầu hết các nghiên cứu chỉ giới hạn trong việc nuôi cấy tế bào và nghiên cứu trên động vật.
Dưới đây là một số phát hiện chính từ các nghiên cứu gần đây.
Bệnh vẩy nến
Apitherapy có thể giúp điều trị các tình trạng viêm da. Ví dụ: một thử nghiệm lâm sàng năm 2015 trên bệnh nhân bị vảy nến thể mảng cho thấy apitherapy có thể giúp chữa lành các tổn thương trên da và giảm viêm.
Trong nghiên cứu ngẫu nhiên, có đối chứng, 25 bệnh nhân được tiêm nọc ong hàng tuần trực tiếp vào các tổn thương da, trong khi 25 bệnh nhân khác được dùng giả dược. Sau 12 tuần, những bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp apitherapy cho thấy sự giảm đáng kể về cả mảng vẩy nến và mức độ các dấu hiệu viêm trong máu so với nhóm dùng giả dược. Các thử nghiệm lớn hơn là cần thiết để xác nhận những kết quả này.
Đau đớn
Châm cứu - một hình thức châm cứu đưa nọc ong pha loãng đến các huyệt đạo - đang được khám phá như một phương pháp điều trị không dùng thuốc để giảm đau. Một thử nghiệm lâm sàng nhỏ trên những bệnh nhân bị đau trung ương sau đột quỵ được điều trị cho 16 đối tượng bằng phương pháp châm cứu hoặc châm cứu hai lần một tuần trong ba tuần.
Vào cuối cuộc thử nghiệm, cả hai nhóm đều báo cáo mức độ đau giảm, nhưng những người được điều trị bằng nọc ong cho thấy sự cải thiện thậm chí còn lớn hơn. Nghiên cứu thêm là cần thiết để khám phá phương pháp châm cứu để điều trị các tình trạng đau khác.
Bệnh Parkinson
Liệu pháp nọc ong đang được khám phá như một phương pháp điều trị bệnh Parkinson. Một nghiên cứu năm 2015 được công bố trên Tạp chí Thuốc thay thế và Bổ sung nọc ong được tìm thấy kết hợp với châm cứu cho thấy hứa hẹn như một phương pháp điều trị bổ trợ cho bệnh thần kinh.
Trong một thử nghiệm lâm sàng nhỏ, những bệnh nhân đang dùng thuốc antiparkinsonian liều ổn định cũng được điều trị bằng phương pháp châm cứu hai lần mỗi tuần trong 12 tuần. Vào cuối nghiên cứu, các đối tượng cho thấy sự cải thiện về tốc độ đi, điểm chất lượng cuộc sống, kiểm soát vận động và các hoạt động sinh hoạt hàng ngày so với khi bắt đầu điều trị.
Mặc dù đầy hứa hẹn, các tác giả nghiên cứu lưu ý rằng cần phải nghiên cứu thêm.
Vai đông lạnh
Châm cứu nọc ong kết hợp vật lý trị liệu đã được nghiên cứu trong điều trị đông cứng vai gáy.
Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Thuốc thay thế và Bổ sung năm 2014 đã thử nghiệm tác dụng của phương pháp châm cứu kết hợp với vật lý trị liệu trên 60 bệnh nhân. Các đối tượng được chia thành ba nhóm và được châm cứu bằng nước muối hoặc hai liều lượng nọc ong khác nhau trong hai tháng, sau đó được theo dõi sau 12 tháng.
Những người được điều trị bằng nọc ong cho biết mức độ đau giảm sau khi điều trị, và những cải thiện đó vẫn tồn tại một năm sau đó.
Viêm khớp
Liệu pháp đốt ong có thể hỗ trợ điều trị viêm khớp dạng thấp, theo nghiên cứu được công bố BMJ mở vào năm 2014. Tổng quan tài liệu cho thấy một thử nghiệm lâm sàng nhỏ so sánh phương pháp điều trị châm cứu bằng nọc ong với giả dược. Các phương pháp điều trị bằng ong có hiệu quả hơn trong việc giảm đau, cứng khớp vào buổi sáng, giảm đau khớp và sưng khớp, đồng thời cũng cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm khớp.
Tuy nhiên, các tác giả nghiên cứu lưu ý rằng số lượng thử nghiệm, chất lượng của chúng và tổng cỡ mẫu quá thấp để đưa ra kết luận chắc chắn về hiệu quả của phương pháp châm cứu và cần phải nghiên cứu thêm.
Liệu pháp đốt ong được đưa vào nền y học hiện đại của Mỹ vào giữa thế kỷ 20 bởi người nuôi ong Charles Mraz ở Vermont, người đã nghiên cứu những lợi ích lâm sàng của nọc ong tại Viện Sloan-Kettering và Viện Quân đội Walter Reed. Nghiên cứu tiếp tục cho thấy nọc ong đốt có hứa hẹn như một phương pháp điều trị các bệnh tự miễn dịch, rối loạn hệ thần kinh trung ương và HIV.
Tác dụng phụ, Rủi ro và Chống chỉ định
Một số bệnh nhân có thể bị phản ứng dị ứng nghiêm trọng khi bị ong đốt. Trong một số trường hợp, liệu pháp đốt ong có thể gây ra sốc phản vệ, nguy hiểm đến tính mạng. Do những lo ngại về an toàn này, điều quan trọng đối với bất kỳ ai bị dị ứng do ong đốt là phải tránh điều trị này.
Liệu pháp đốt ong cũng được biết là gây đau, cũng như các tác dụng phụ như lo lắng, chóng mặt, mất ngủ, thay đổi huyết áp và tim đập nhanh.
Ngoài ra, có một số lo ngại rằng liệu pháp đốt ong có thể ảnh hưởng đến chức năng miễn dịch.
Do tác động của nọc ong lên hệ thống miễn dịch, nên thận trọng với một số tình trạng nhất định, chẳng hạn như rối loạn tự miễn dịch. Trong một nghiên cứu điển hình được công bố trên Tạp chí Nội khoa Hàn Quốc Ví dụ, vào năm 2009, các nhà nghiên cứu cho rằng liệu pháp đốt ong có thể góp phần vào sự phát triển của bệnh lupus (một chứng rối loạn tự miễn dịch). Tạp chí Thế giới về Gan mật cũng cảnh báo rằng liệu pháp ong đốt có thể gây độc cho gan.
Một lời từ rất tốt
Do nghiên cứu còn hạn chế, còn quá sớm để giới thiệu liệu pháp đốt ong như một phương pháp điều trị cho bất kỳ tình trạng nào. Nếu bạn đang cân nhắc sử dụng liệu pháp ong đốt trong điều trị bệnh, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi tìm cách điều trị. Việc tự điều trị và tránh hoặc trì hoãn việc chăm sóc tiêu chuẩn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.