NộI Dung
Hội chứng Timothy (TS) là một rối loạn di truyền hiếm gặp, gây rối loạn nhịp tim nghiêm trọng, thiểu năng trí tuệ và co giật. Nhiều trẻ em sinh ra với chứng rối loạn này có các đặc điểm trên khuôn mặt, ngón chân và ngón tay đặc biệt, và các đặc điểm của chứng tự kỷ. Hội chứng Timothy có thể được xác nhận bằng xét nghiệm di truyền và được điều trị bằng thuốc chẹn beta hoặc máy tạo nhịp tim để bình thường hóa các vấn đề về nhịp tim. Một số lượng đáng kể trẻ em sinh ra với TS chết trước 3 tuổi, thường là do ngừng tim đột ngột.Hội chứng Timothy được đặt theo tên của Katherine W. Timothy, M.D., Đại học Utah, người đã xác định chứng rối loạn này vào năm 1989. Năm 2004, một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế, bao gồm Tiến sĩ Timothy, đã phát hiện ra đột biến gen gây ra chứng rối loạn này.
Ít hơn 100 trường hợp mắc hội chứng Timothy đã được báo cáo trên toàn thế giới.
Còn được biết là:
- Hội chứng QT dài với syndactyly
- Hội chứng QT dài loại phụ 8
- LQT8
Các triệu chứng
Đặc điểm trung tâm của TS là một tình trạng được gọi là hội chứng QT dài, trong đó cơ tim mất nhiều thời gian hơn bình thường để nạp năng lượng giữa các nhịp đập. Điều này có thể đi kèm với các khuyết tật cấu trúc tim và một loạt các triệu chứng ảnh hưởng đến hệ thần kinh và các bộ phận khác của cơ thể.
Hầu hết trẻ em bị TS có dạng cổ điển, TS loại 1, được đặc trưng bởi bất kỳ triệu chứng nào ngoài QT dài:
- Rối loạn nhịp tim (nhịp tim bất thường)
- Syndactyly (ngón tay và ngón chân có màng)
- Đặc điểm khuôn mặt: tai thấp, hàm trên nhỏ, sống mũi tẹt, môi trên mỏng
- Răng mọc sai vị trí
- Sâu răng thường xuyên
- Khuyết tật trí tuệ
- Chứng tự kỷ
- Nhiễm trùng thường xuyên hoặc tái phát
- Co giật
- Các đợt hạ thân nhiệt (thân nhiệt thấp) và hạ đường huyết (lượng đường trong máu thấp)
Dạng TS thứ hai, được gọi là TS type-2, gây ra dạng hội chứng QT dài nghiêm trọng hơn cũng như tăng nguy cơ đột tử. Không giống như dạng cổ điển, dạng không điển hình này không gây ra hội chứng và trên thực tế, có thể không gây ra bất kỳ triệu chứng nào khác.
Các biến chứng
Các biến chứng của hội chứng Timothy có thể làm suy yếu thêm sức khỏe của trẻ bao gồm:
- Nhiễm trùng phế quản và xoang: Một số bệnh nhiễm trùng như vậy vẫn tồn tại ngay cả với liệu pháp kháng sinh tích cực và đã gây ra một số trường hợp tử vong của TS.
- Hạ đường huyết nghiêm trọng: Khi mức đường huyết giảm xuống dưới 36 miligam mỗi decilit (mg / dL), nó có thể gây ra rối loạn nhịp tim ở trẻ em bị TS. Điều này đặc biệt đúng đối với những người dùng thuốc chẹn beta mà thuốc có thể làm cho tình trạng hạ đường huyết trở nên tồi tệ hơn.
Hầu hết các trường hợp tử vong sớm do hội chứng Timothy là kết quả của rối loạn nhịp nhanh thất, trong đó các buồng tim dưới co bóp nhanh và thất thường, dẫn đến ngừng tim đột ngột. Theo một nghiên cứu năm 2016 tạiVòng tuần hoàn, tỷ lệ tử vong ở trẻ em được chẩn đoán TS từ năm 2004 là 27%.
Tại sao đột ngột ngừng tim xảy ra
Nguyên nhân
Hội chứng Timothy là do đột biến gen CACNA1C, gen này cung cấp cho cơ thể hướng dẫn cách tạo kênh để cung cấp canxi đến các tế bào. Canxi có liên quan đến nhiều chức năng sinh lý, bao gồm co bóp tim và giao tiếp giữa các tế bào (bao gồm cả các chức năng trong não và tủy sống).
Theo TS, các kênh canxi trong cơ thể mở lâu hơn bình thường, cho phép canxi làm quá tải các tế bào. Khi điều này xảy ra ở tim, nhịp điệu bình thường bị gián đoạn, dẫn đến rối loạn nhịp tim và hội chứng QT dài.
Không rõ việc quá tải canxi ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển và chức năng của não, nhưng nó được cho là góp phần gây ra khuyết tật trí tuệ ở những người bị TS.
CACNA1C từ lâu đã được biết đến với vai trò trong sự phát triển và tồn tại của các tế bào thần kinh. Nó cũng ảnh hưởng đến tính dẻo của khớp thần kinh (sự di chuyển của tín hiệu giữa các tế bào thần kinh).
Rối loạn chức năng xương và khuôn mặt (các đặc điểm đặc trưng của dị tật bẩm sinh) cũng được cho là bắt nguồn từ đột biến trong hoặc xóa các gen phát triển đơn lẻ.
Mô hình kế thừa
Hội chứng Timothy được di truyền theo kiểu trội trên NST thường, có nghĩa là chỉ cần một bản sao của gen CACNA1C đột biến từ cha hoặc mẹ để trẻ phát triển chứng rối loạn này.
Hầu hết các trường hợp là kết quả của một đột biến gen mới vì không có bằng chứng về việc TS được truyền qua gia đình. Tại sao đột biến CACNA1C tự phát xảy ra ở bố và mẹ vẫn chưa được biết.
Ít thường xuyên hơn, TS có thể xảy ra do kết quả của bệnh khảm di truyền. Mosaicism có nghĩa là cha hoặc mẹ có đột biến trong một số tế bào của cơ thể họ (như trứng hoặc tinh trùng) nhưng không phải những tế bào khác. Bệnh khảm có liên quan đến các triệu chứng TS ít nghiêm trọng hơn so với những người thừa hưởng đột biến theo kiểu trội trên NST thường.
Chẩn đoán
Bởi vì TS rất hiếm, nó có thể bị bỏ qua ở trẻ sơ sinh và trẻ em có biểu hiện rối loạn nhịp tim (đặc biệt nếu các triệu chứng kèm theo là tinh vi). Trên thực tế, chỉ khoảng một nửa số trẻ em sinh ra với TS sẽ bị rối loạn hình thái khuôn mặt. Các đặc điểm khác, như thiểu năng trí tuệ, co giật hoặc các vấn đề về răng miệng, có thể không được nhận ra cho đến khi trẻ lớn hơn.
Do đó, TS nên được nghi ngờ nếu rối loạn nhịp tim xảy ra trong vài ngày đầu sau sinh, nặng, hoặc kèm theo các ngón tay hoặc ngón chân có màng và / hoặc các đặc điểm bất thường trên khuôn mặt. Một manh mối tinh tế khác là trẻ sơ sinh bị TS thường bị hói đầu.
Đánh giá và Kiểm tra Phòng thí nghiệm
Nếu nghi ngờ TS, một điện tâm đồ (ECG) có thể được sử dụng để đo khoảng QT (thời gian giữa quá trình sạc lại và giải phóng điện trong một nhịp tim). Với hội chứng QT dài, thời gian của một nhịp tim sẽ hỗn loạn vì quá trình sạc lại bị trì hoãn giữa các nhịp đập.
Siêu âm tim không xâm lấn (siêu âm tim) cũng có thể được sử dụng để phát hiện các vấn đề về cấu trúc của chính tim.
Một xét nghiệm di truyền được gọi là giải trình tự gen CACNA1C có thể xác nhận TS. Nó có thể được thực hiện trên nước bọt hoặc mẫu máu từ 2 đến 3 mililit (mL).
Thường mất từ hai đến ba tuần để trả kết quả xét nghiệm di truyền CACNA1C.
Kiểm tra bộ gen so với bộ genSự đối xử
Có cả thuốc và thủ thuật có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của một đứa trẻ bị TS và có thể kéo dài tuổi thọ của chúng.
Thuốc men
Chủ yếu trong số này là việc sử dụng thuốc chẹn kênh canxi như Calan (verapamil) hoặc Procardia (nifedipine) làm chậm quá trình cung cấp canxi đến các tế bào. Vì thuốc chẹn beta có thể ảnh hưởng đến lượng đường trong máu, một đứa trẻ bị TS dùng chúng có thể cần theo dõi đường huyết thường xuyên để tránh các hiện tượng hạ đường huyết.
Thuốc kháng sinh có thể được kê đơn để điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn. Thường tránh dùng kháng sinh macrolide như Zithromax (azithromycin) vì chúng có thể gây ra xoắn đỉnh (một loại rối loạn nhịp tim nghiêm trọng) ở những người bị bệnh tim.
Thủ tục
Nếu tình trạng rối loạn nhịp tim kéo dài hoặc tái phát, có thể khuyên dùng máy tạo nhịp tim để giúp bình thường hóa nhịp tim. Những trường hợp nghiêm trọng có thể sử dụng máy khử rung tim bên trong hoặc bên ngoài để "gây sốc" cho tim nếu nó đột ngột ngừng đập. Phẫu thuật tim cũng có thể cần thiết để sửa chữa các khiếm khuyết về cấu trúc.
Cần hết sức thận trọng khi bắt tay vào bất kỳ thủ thuật phẫu thuật nào vì gây mê có thể gây rối loạn nhịp tim nghiêm trọng ở trẻ em bị TS.
Những điều cần biết về máy khử rung tim cấy ghépNhững ý kiến khác
Các nhu cầu về tâm thần và phát triển của trẻ em bị TS cũng có thể cần được giải quyết. Trẻ tự kỷ gặp khó khăn với giao tiếp và xã hội hóa có thể yêu cầu áp dụng liệu pháp hành vi, liệu pháp giao tiếp hoặc thuốc để kiểm soát chứng tăng động, lo lắng và các rối loạn tâm trạng hoặc hành vi khác.
TS có liên quan đến men răng yếu và sâu răng thường xuyên và vì vậy vệ sinh răng miệng có thể cần được chú trọng để giúp ngăn ngừa sâu răng cũng như nhiễm trùng thứ phát do bệnh răng miệng.
Một lời từ rất tốt
Hội chứng Timothy không phải là một chẩn đoán mà bất kỳ phụ huynh nào cũng muốn nghe, nhưng điều quan trọng cần nhớ là TS không có tiền định hoặc kết quả. Một số trẻ em bị TS sống trong nhiều năm và nếu được điều trị thích hợp, có thể tránh được nhiều biểu hiện nghiêm trọng hơn của chứng rối loạn.
Chẩn đoán sớm là chìa khóa để kiểm soát lâu dài các triệu chứng TS. Nếu bạn nghi ngờ con mình bị TS hoặc tự hỏi tại sao nó không được khám phá sau một sự kiện rối loạn nhịp tim, hãy hỏi bác sĩ về xét nghiệm di truyền hoặc tìm kiếm ý kiến thứ hai từ một nhà di truyền học lâm sàng.
Cố vấn di truyền là gì?