NộI Dung
Phù tủy xương là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả sự tích tụ của chất lỏng (phù nề) trong tủy xương. Trong khi thuật ngữ này vẫn thường được các bác sĩ lâm sàng sử dụng, ngày nay nó thường được gọi là tổn thương tủy xương.Phù tủy xương là một tình trạng có thể được xác định trên siêu âm hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) và thường liên quan đến viêm xương khớp, gãy xương hoặc chấn thương khớp. Nó cũng có thể liên quan đến nhiễm trùng xương (viêm tủy xương), cũng được nhìn thấy trong MRI.
Phù tủy xương trong viêm xương khớp
Sự phát triển của phù tủy xương trong viêm xương khớp thường là dấu hiệu của tình trạng xấu đi. Ngoài sự tích tụ chất lỏng, u nang dưới sụn thường có thể được phát hiện trên MRI.
Nang dưới sụn xảy ra khi tổn thương sụn bắt đầu cứng lại và hình thành các túi chứa đầy chất lỏng (nang) trong khớp. Điều này làm cho không gian khớp bị thu hẹp và sụn bị mài mòn thêm, gây ra sự cọ xát với xương.
Khi ngày càng mất nhiều sụn, các thụ thể thần kinh bên dưới ngày càng lộ ra, dẫn đến đau và ngày càng mất khả năng vận động. Điều này đặc biệt đúng trong các trường hợp thoái hóa khớp gối. Tình trạng khớp gối bị lệch chỉ làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh, gây thêm căng thẳng về cấu trúc cho các khớp vốn đã bị viêm.
Phù tủy xương ở những người bị viêm xương khớp có liên quan đến kết quả kém. Khi so sánh với những người không bị phù, những người bị phù có khả năng thấy tình trạng của họ xấu đi nhanh chóng, thường trong thời gian từ 15 đến 30 tháng.
Phù tủy xương trong chấn thương
Phù tủy xương thường thấy khi gãy xương và các chấn thương xương hoặc khớp nghiêm trọng khác, đặc biệt là những chấn thương liên quan đến cột sống, hông, đầu gối hoặc mắt cá chân.
Trong bối cảnh chấn thương, thuật ngữ này tương đối không cụ thể và có thể đề cập đến sự tích tụ chất lỏng hoặc máu hoặc sự tích tụ chất lỏng do xơ hóa (mô sẹo) hoặc hoại tử (mô chết).
Một số nguyên nhân gây ra phù tủy xương bao gồm:
- Gãy xương do căng thẳng của bàn chân, hông, mắt cá chân hoặc đầu gối trong đó tác động lặp đi lặp lại gây căng thẳng quá mức cho khớp chịu trọng lượng
- Rách dây chằng chéo trước (ACL), thường phức tạp chứ không đơn giản, biểu hiện bằng vết bầm tím và viêm bao hoạt dịch
- Gãy xương do nén đốt sống, thường liên quan đến tuổi cao, nơi xương cột sống bắt đầu vỡ vụn và xẹp xuống
- Các khối u xương trong đó sự tích tụ chất lỏng có thể làm suy yếu tính toàn vẹn cấu trúc của xương và làm tăng nguy cơ gãy xương
- Nhiễm trùng xương (viêm tủy xương)
- Rất hiếm khi trật khớp háng trong đó lượng máu cung cấp cho xương bị giảm đi có thể gây ra chứng hoại tử xương (chết xương)
Trong khi một số loại phù tủy xương rất khó điều trị, những loại phù nề liên quan đến chấn thương hoặc chuyển động lặp đi lặp lại thường có thể được giải quyết bằng cách nghỉ ngơi, dùng thuốc giảm đau không steroid và vật lý trị liệu. Trường hợp nặng có thể phải tiêm steroid hoặc phẫu thuật.
Phù tủy xương có thể là một tình trạng khó hiểu, ảnh hưởng đến một số người khác với những người khác. Mặc dù nó có xu hướng tự khỏi trong vòng 4 đến 12 tháng sau chấn thương, nhưng có tới 15% trường hợp sẽ tồn tại trong 2 năm hoặc hơn, ngay cả trong số những trường hợp có sức khỏe hoàn hảo.