Các loại dự phòng trong y học

Posted on
Tác Giả: Eugene Taylor
Ngày Sáng TạO: 7 Tháng Tám 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 12 Có Thể 2024
Anonim
Các loại dự phòng trong y học - ThuốC
Các loại dự phòng trong y học - ThuốC

NộI Dung

Thuật ngữ dự phòng có nghĩa là phòng ngừa, hoặc để ngăn ngừa. Nguồn gốc tiếng Hy Lạp, từ từ "phylax", có nghĩa là "bảo vệ" và "theo dõi", điều trị dự phòng thường được sử dụng trong chăm sóc sức khỏe để giảm thiểu bệnh tật và bệnh tật.

Chăm sóc sức khỏe dự phòng

Trong y học, thuật ngữ dự phòng được sử dụng để mô tả các ca phẫu thuật, vệ sinh răng miệng, vắc xin, kiểm soát sinh sản và nhiều loại thủ thuật và phương pháp điều trị khác nhằm ngăn chặn điều gì đó xảy ra. Thuốc chủng ngừa viêm gan dự phòng ngăn ngừa bệnh nhân bị viêm gan, trong khi làm sạch răng dự phòng ngăn ngừa sâu răng.

Dự phòng là một điều tốt trong chăm sóc sức khỏe, nó ngăn ngừa một vấn đề ngoài ý muốn bằng cách giải quyết vấn đề tiềm ẩn trước khi nó thực sự trở thành vấn đề. Việc ngăn ngừa tác hại hoặc bệnh tật thường dễ dàng hơn, nhanh hơn, ít tốn kém và ít đau đớn hơn so với việc điều trị bệnh khi nó được phép xảy ra.

Các loại chăm sóc dự phòng

Chăm sóc phòng ngừa có nhiều hình thức và tiếp tục ngay cả sau khi quá trình bệnh đã được xác định. Nói chung, dự phòng không chỉ có nghĩa là ngăn ngừa bệnh mà còn có nghĩa là ngăn ngừa bệnh trở nên trầm trọng hơn, giảm thiểu mức độ nghiêm trọng của bệnh và ngăn ngừa việc điều trị quá mức.


Dự phòng chính: Ngăn ngừa hoặc tăng sức đề kháng đối với bệnh tật chưa xảy ra. Điều này có thể bao gồm việc kiểm tra y tế định kỳ và tiêm phòng. Xét nghiệm tế bào cổ tử cung, soi ruột kết và chụp quang tuyến vú thường được thực hiện như một biện pháp dự phòng chính khi bệnh nhân khỏe mạnh và không có dấu hiệu của bệnh. Một khi đã biết có bệnh, việc sàng lọc không còn được coi là phương pháp dự phòng chính.

Dự phòng thứ cấp: Các biện pháp được thực hiện để ngăn ngừa sự tái phát của vấn đề y tế hoặc chấn thương đã xảy ra, chẳng hạn như thay đổi môi trường làm việc để ngăn ngừa tái phát chấn thương hoặc dùng statin để ngăn ngừa cơn đau tim tái phát.

Dự phòng bậc ba: Các biện pháp được thực hiện để giảm tác động của một bệnh mãn tính, đang diễn ra hoặc chấn thương có khả năng tạo ra các tác động lâu dài, chẳng hạn như chương trình phục hồi chức năng đột quỵ hoặc chương trình quản lý bệnh suy tim.

Dự phòng bậc bốn: Đây là ý kiến ​​cho rằng nên ngăn chặn việc điều trị y tế quá mức và không nên chấp nhận những bệnh nhân không được hưởng lợi từ việc điều trị y tế thêm. Ví dụ, nếu một bệnh nhân không đáp ứng với đợt hóa trị đầu tiên, không có lý do hợp lý nào để thực hiện đợt hóa trị thứ hai với cùng một loại thuốc.


Dự phòng trong sử dụng phổ biến

Nói chung, thuật ngữ dự phòng thường là từ đồng nghĩa với bao cao su, vì chúng được coi là biện pháp phòng ngừa mang thai ngoài ý muốn.

Thuốc kháng sinh dự phòng

Thuật ngữ "kháng sinh dự phòng" dùng để chỉ các loại thuốc kháng sinh được dùng để ngăn ngừa nhiễm trùng hơn là điều trị nhiễm trùng. Thuốc kháng sinh dự phòng được tránh bất cứ khi nào có thể trong y tế, vì việc lạm dụng thuốc kháng sinh đã dẫn đến tình trạng kháng thuốc kháng sinh và không mang lại lợi ích gì cho bệnh nhân. Có thể có những trường hợp riêng lẻ mà việc sử dụng kháng sinh trước khi phẫu thuật được cho là phù hợp, hoặc khi bệnh nhân đủ ốm để đảm bảo sử dụng kháng sinh trước khi cấy máu hoặc các kết quả xét nghiệm khác xác nhận sự hiện diện của nhiễm trùng. Trong những trường hợp này, lợi ích tiềm ẩn nhiều hơn nguy cơ có hại, và bác sĩ chọn sử dụng kháng sinh.

Điều đó nói rằng, có một số thời điểm hạn chế khi kháng sinh phòng ngừa được biết là hữu ích cho đại đa số bệnh nhân và nghiên cứu ủng hộ việc sử dụng những loại thuốc này để ngăn ngừa tác hại. Hầu hết mọi bệnh nhân trải qua phẫu thuật có vết rạch trên da sẽ được dùng kháng sinh dự phòng trong vòng 30 phút sau khi rạch da và phải tiêm lại sau mỗi 4 giờ hoặc nếu có lượng lớn hoặc mất máu. Điều này áp dụng cho nha khoa các thủ thuật cũng có nguy cơ lây lan nhiễm trùng cụ thể đến tim, đặc biệt là tim của những người đã (hoặc có) các vấn đề nghiêm trọng về tim.


Trước khi làm thủ thuật nha khoa, những người có tiền sử viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, nhiễm trùng tim nghiêm trọng, nên dùng kháng sinh. Điều này cũng đúng với những người đã cấy ghép tim có vấn đề về van, những người đã thay van tim và các dạng dị tật tim cụ thể có ở trẻ sơ sinh.

Không còn khuyến cáo rằng những người được thay khớp được điều trị bằng kháng sinh trước khi làm thủ thuật nha khoa. Nếu bạn đã thực hiện một thủ thuật dùng kháng sinh dự phòng là một ý kiến ​​hay, bác sĩ phẫu thuật sẽ cho bạn biết điều này. Thông thường, nha sĩ cũng sẽ hỏi những câu hỏi để xác định xem điều này có cần thiết hay không, trong trường hợp bạn quên đề cập đến nó.