NộI Dung
Mất ngủ sau chấn thương đầu và chấn thương sọ não là một than phiền lâu dài phổ biến.Mất ngủ có thể cản trở quá trình hồi phục theo nhiều cách khác nhau. Ngủ không ngon vào ban đêm dẫn đến mệt mỏi suốt cả ngày. Do đó, điều này làm cho việc tập trung trở nên khó khăn hơn và làm tăng sức căng cần thiết để duy trì cảnh báo và tham gia. Mệt mỏi cũng có thể ảnh hưởng đến trí nhớ, vốn đã là một vấn đề đối với nhiều người bị chấn thương đầu.
Mệt mỏi thứ phát do mất ngủ làm giảm lượng năng lượng có sẵn để tham gia vào các hoạt động xã hội. Nghiên cứu chứng minh rằng việc trở lại cộng đồng thông qua các hoạt động thú vị giúp phục hồi sau chấn thương đầu. Không thể tham gia với những người khác và vui vẻ do mất ngủ và mệt mỏi có thể làm chậm tiến trình.
Giấc ngủ được biết là bắt đầu các quá trình tế bào giúp não tự chữa lành, loại bỏ chất thải và sửa chữa các tế bào. Ngủ không đủ giấc sẽ làm chậm quá trình này, và theo các nghiên cứu trên động vật thậm chí có thể góp phần gây tổn thương tế bào.
Tất cả những hậu quả thứ cấp của chứng mất ngủ cộng lại, làm cho việc hiểu và điều trị chứng mất ngủ trở thành một phần quan trọng trong quản lý chấn thương đầu.
Tại sao mất ngủ xảy ra sau chấn thương đầu
Các nhà nghiên cứu đã xác định được một số quá trình dẫn đến mất ngủ sau chấn thương đầu.
Tổn thương các vùng não kiểm soát chu kỳ ngủ-thức có thể liên quan trực tiếp đến rối loạn giấc ngủ. Nhịp điệu tuần hoàn gửi tín hiệu đến cơ thể khi đến lúc thức dậy và khi đi vào giấc ngủ.
Sự tỉnh táo và buồn ngủ được điều chỉnh bởi nhiều chất dẫn truyền thần kinh bao gồm histamine, orexin và axit gamma-aminobutyric (GABA). Những chất này và các chất dẫn truyền thần kinh khác kích thích sự tỉnh táo trong não hoặc ức chế sự tỉnh táo dẫn đến giấc ngủ.
Một giả thuyết cho rằng sau chấn thương não, não không tạo ra các chất dẫn truyền thần kinh chính xác vào thời gian ngủ tối ưu. Cũng có thể có các vấn đề về giao tiếp, nghĩa là nếu các tế bào thần kinh bị thương, chúng không thể phản ứng chính xác với các chất dẫn truyền thần kinh khi ngủ và thức.
Điều này có nghĩa là não không chuyển sang chế độ ngủ hoặc không duy trì giấc ngủ. Chu kỳ giấc ngủ cũng bị ảnh hưởng, với sự thay đổi mô hình giấc ngủ chuyển động mắt nhanh (REM) có liên quan đến giấc mơ.
Điều kiện đóng góp
Trầm cảm sau chấn thương đầu rất phổ biến. Khi bị trầm cảm, tỷ lệ mất ngủ tăng lên. Điều này đặc biệt đúng đối với những người bị chấn thương đầu nhẹ hơn chỉ dẫn đến chấn động. Bất cứ lúc nào có trầm cảm liên quan, điều quan trọng là phải tìm kiếm sự chăm sóc y tế và tâm lý.
Thuốc dùng để điều trị các triệu chứng chấn thương đầu có thể cản trở giấc ngủ bình thường. Giấc ngủ cũng bị xáo trộn nếu có cơn đau.
Khi mất ngủ xuất hiện, cần đánh giá y tế kỹ lưỡng để xác định xem có bất kỳ hành vi hoặc phương pháp điều trị cụ thể nào góp phần gây ra vấn đề hay không. Gặp bác sĩ chuyên khoa được đào tạo để hiểu và xử trí tất cả các loại chấn thương não là một ý kiến hay.
Điều trị
Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) đã hữu ích cho một số người bị chấn thương não liên quan đến chứng mất ngủ. Một số yếu tố của CBT bao gồm các mô hình vệ sinh giấc ngủ nghiêm ngặt, có nghĩa là thời gian đi ngủ và thức dậy đều đặn vào buổi sáng.
Ngoài ra, các hoạt động kích thích cần được kiểm soát và giảm bớt trước khi đi ngủ. Khi bộ não đã bối rối không biết khi nào cần tỉnh táo và nghỉ ngơi, việc xem một bộ phim thú vị hoặc tập thể dục ngay trước giờ đi ngủ sẽ cản trở các tín hiệu về giấc ngủ.
Caffeine từ tất cả các nguồn bao gồm cà phê, trà, sô cô la và đồ uống năng lượng nên tránh vào buổi chiều.
Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc chính và chuyên gia liên quan đến điều trị chấn thương đầu ban đầu nên tham gia tích cực để họ có thể hoàn thành việc xem xét toàn diện các loại thuốc góp phần gây mất ngủ, chẩn đoán bất kỳ tình trạng góp phần nào khác và phát triển kế hoạch giúp não học lại giấc ngủ bình thường và chu kỳ thức. Mỗi chấn thương đầu là duy nhất, vì vậy nên đến gặp bác sĩ và một nhà trị liệu chuyên nghiệp được cấp phép để điều trị chứng mất ngủ sau chấn thương não.