Mối liên hệ giữa IBD và bệnh vẩy nến

Posted on
Tác Giả: Eugene Taylor
Ngày Sáng TạO: 11 Tháng Tám 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 6 Có Thể 2024
Anonim
Mối liên hệ giữa IBD và bệnh vẩy nến - ThuốC
Mối liên hệ giữa IBD và bệnh vẩy nến - ThuốC

NộI Dung

Những người bị bệnh viêm ruột (IBD) đôi khi cũng phát triển các bệnh hoặc tình trạng khác được gọi là biểu hiện ngoài ruột (hoặc đôi khi EIM). Tình trạng da khá phổ biến ở những người bị IBD và một bệnh có xu hướng xảy ra thường xuyên ở cả dân số nói chung và những người bị IBD là bệnh vẩy nến. Nhiều người có thể nghĩ bệnh vẩy nến là phát ban, nhưng đó thực sự là một tình trạng toàn thân và có thể có chung một con đường viêm như bệnh Crohn. Bởi vì hai tình trạng này có thể do trục trặc trong hoạt động của hệ thống miễn dịch, chúng thường được điều trị bằng một số loại thuốc giống nhau. Đối với những người bị IBD cũng bị bệnh vẩy nến, cả hai điều kiện có thể là một yếu tố khi lựa chọn phương pháp điều trị.

Có rất nhiều phương pháp điều trị hiệu quả cho bệnh vẩy nến và hiện đang phát triển nhiều phương pháp điều trị khác. Những người bị cả bệnh vẩy nến và IBD sẽ muốn tìm kiếm sự chăm sóc từ bác sĩ da liễu có kinh nghiệm với bệnh nhân bị IBD và sẽ làm việc chặt chẽ với bác sĩ tiêu hóa.


Bệnh vẩy nến là gì?

Bệnh vẩy nến là một bệnh toàn thân, gây phát ban có vảy và nổi trên da. Phát ban có thể xuất hiện trên bất kỳ bộ phận nào của cơ thể, nhưng thường xuất hiện nhất ở khuỷu tay, đầu gối và da đầu nhưng cũng có thể xuất hiện trên chân, móng tay và thân mình. Loại bệnh vẩy nến phổ biến nhất được gọi là bệnh vẩy nến thể mảng và các mảng này có thể gây ngứa hoặc rát. Bệnh vẩy nến trải qua các giai đoạn bùng phát và thuyên giảm. Trong hầu hết các trường hợp, bệnh vẩy nến được điều trị bằng các loại kem bôi.

Ảnh này chứa nội dung mà một số người có thể thấy phản cảm hoặc đáng lo ngại.

Mức độ phổ biến của bệnh vẩy nến ở những người bị IBD?

IBD được coi là một tình trạng qua trung gian miễn dịch. Không hiếm những người mắc một bệnh qua trung gian miễn dịch lại phát triển một bệnh khác. IBD và bệnh vẩy nến đều là những tình trạng không rõ nguyên nhân (được gọi là bệnh vô căn) và dẫn đến viêm.


Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đang khám phá thêm về mối liên hệ giữa IBD và bệnh vẩy nến. Bệnh vẩy nến trong dân số nói chung chỉ chiếm khoảng 2% đến 3% nhưng đối với những người bị IBD, nó có xu hướng cao hơn. Các nghiên cứu cho thấy những người bị bệnh Crohn và viêm loét đại tràng có thể phát triển bệnh vẩy nến với tỷ lệ khoảng 13%.

Một con đường viêm nhiễm phổ biến

Khi các nhà nghiên cứu khám phá thêm về các con đường viêm của IBD và bệnh vẩy nến, một số trùng lặp giữa hai bệnh đang được phát hiện. Bệnh Crohn và bệnh vẩy nến đều được coi là tình trạng bệnh qua trung gian Th1. Th1 là một tế bào trợ giúp gắn kết phản ứng viêm khi cơ thể bị xâm nhập bởi một chất lạ như ký sinh trùng, vi khuẩn hoặc vi rút. Viêm loét đại tràng được coi là một tình trạng giống như Th2. Tế bào Th2 được kích hoạt khi có vi khuẩn, phản ứng dị ứng hoặc độc tố. Khi vai trò của các tế bào T này được hiểu rõ hơn liên quan đến sự phát triển của bệnh IBD và bệnh vẩy nến, nó có thể dẫn đến việc tạo ra các phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho những bệnh này.


Bị bệnh vẩy nến có làm tăng nguy cơ phát triển bệnh IBD không?

Chỉ có một số nghiên cứu xem xét nguy cơ mắc IBD ở những người đã được chẩn đoán mắc bệnh vẩy nến. Họ đã cho thấy những kết quả trái ngược nhau: Một số cho thấy nguy cơ IBD tăng lên ở những người bị bệnh vẩy nến và những người khác lại cho thấy điều ngược lại. Ngoài ra, các phương pháp được sử dụng trong các nghiên cứu này không phải không có nhược điểm của chúng, điều này làm cho các kết luận khó xác định hơn.

Một phân tích tổng hợp lớn cho thấy có mối liên quan "đáng kể" giữa bệnh vẩy nến và bệnh IBD. Bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến có nguy cơ phát triển bệnh Crohn và viêm loét đại tràng cao hơn. Nguy cơ mắc bệnh Crohn cao hơn nguy cơ bị viêm loét đại tràng.

Hiện tại, người ta không biết chính xác nguy cơ là gì, nhưng dường như có xu hướng đối với những người bị bệnh vẩy nến có nguy cơ phát triển bệnh Crohn. Điều này cũng có thể không đúng đối với bệnh viêm loét đại tràng: Có ít bằng chứng cho thấy những người bị bệnh vẩy nến có thể tăng nguy cơ phát triển bệnh viêm loét đại tràng hoặc ảnh hưởng có thể ít hơn đối với bệnh Crohn.

Các phương pháp điều trị tại chỗ và ánh sáng cho bệnh vẩy nến

Có một số phương pháp điều trị bệnh vẩy nến, bao gồm liệu pháp ánh sáng, phương pháp điều trị tại chỗ và thuốc. Trong nhiều trường hợp, nhiều phương pháp điều trị có thể được sử dụng cùng một lúc để chống lại các triệu chứng của bệnh vẩy nến. Nói chung, các liệu pháp tại chỗ có thể được thử trước, trước khi chuyển sang liệu pháp ánh sáng hoặc thuốc toàn thân.

  • Điều trị tại chỗ. Có nhiều loại kem và thuốc mỡ có thể được sử dụng cho bệnh vẩy nến, cả không kê đơn và kê đơn. Một số thành phần hoạt tính bao gồm corticosteroid, vitamin D, retinoid, anthralin, chất ức chế calcineurin (Protopic và Elidel), axit salicylic và nhựa than đá. Trong một số trường hợp, kem dưỡng ẩm cũng có thể được sử dụng để chống khô da.
  • Liệu pháp ánh sáng. Ánh sáng có chứa tia cực tím A và tia cực tím B cũng có thể được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến. Điều này thường được sử dụng cùng với các phương pháp điều trị khác. Có thể sử dụng ánh sáng mặt trời từ bên ngoài, trong thời gian ngắn. Tia cực tím cũng có thể được sử dụng thông qua đèn chiếu với bảng đèn, hộp hoặc buồng. Trong trường hợp nghiêm trọng, một loại thuốc làm cho da nhạy cảm hơn với tia cực tím cũng có thể được sử dụng cùng lúc với liệu pháp ánh sáng để mang lại hiệu quả cao hơn. Một loại tia laser đôi khi cũng được sử dụng vì nó có thể nhắm mục tiêu vào các khu vực cụ thể trên cơ thể với liều tia cực tím B mạnh hơn.

Thuốc được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến

Vì vảy nến là bệnh toàn thân nên cũng có thể dùng thuốc uống hoặc tiêm. Trong một số trường hợp, các loại thuốc được phê duyệt để điều trị bệnh vẩy nến cũng được sử dụng để điều trị một hoặc nhiều dạng IBD, bao gồm methotrexate, cyclosporine và một số sinh học:

  • Cosentyx (secukinumab): Cosentyx là một kháng thể đơn dòng được chấp thuận để điều trị bệnh vẩy nến, viêm khớp vẩy nến và một dạng viêm khớp liên quan đến IBD được gọi là viêm cột sống dính khớp, mặc dù nó không được chấp thuận để điều trị bất kỳ dạng IBD nào. Cosentyx được tiêm tại nhà bằng cách tiêm bằng bút hoặc ống tiêm đã được điền sẵn. Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm các triệu chứng cảm lạnh, tiêu chảy và nhiễm trùng đường hô hấp trên.
  • Cyclosporine: Cyclosporine là một loại thuốc ức chế miễn dịch được sử dụng để điều trị các trường hợp bệnh vẩy nến nặng hơn và đôi khi cũng được sử dụng trong bệnh viêm loét đại tràng. Một số tác dụng phụ phổ biến hơn bao gồm nhức đầu, rối loạn tiêu hóa, huyết áp cao và mệt mỏi. Nó thường không được khuyến khích sử dụng lâu dài trong trường hợp bệnh vẩy nến và thường được ngừng sử dụng dưới một năm.
  • Enbrel (etanercept): Enbrel là một loại thuốc sinh học được chấp thuận để điều trị bệnh vẩy nến cũng như viêm cột sống dính khớp. Nó là một yếu tố gây hoại tử khối u / thuốc chẹn trung gian gây viêm, hoặc thuốc chẹn TNF, nhưng nó không được sử dụng để điều trị bất kỳ dạng IBD nào. Enbrel được tiêm tại nhà và tác dụng phụ thường gặp nhất là có phản ứng tại chỗ tiêm, chẳng hạn như đỏ hoặc đau.
  • Humira (adalimumab): Humira là một loại thuốc tiêm được sử dụng để điều trị bệnh Crohn và viêm loét đại tràng cũng như bệnh vẩy nến. Bệnh nhân có thể tự tiêm Humira tại nhà vì nó có trong bút tiêm chuyên dụng. Thuốc này là một kháng thể đơn dòng và được phân loại là chất ức chế TNF. Tác dụng phụ thường gặp nhất là đau hoặc kích ứng tại chỗ tiêm, được điều trị tại nhà bằng nước đá hoặc thuốc kháng histamine.
  • Methotrexate: Thuốc này có thể được dùng bằng đường uống hoặc đường tiêm, và được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến cũng như bệnh Crohn và viêm cột sống dính khớp. Một số tác dụng phụ bao gồm buồn nôn, nhức đầu và buồn ngủ. Phụ nữ nhận methotrexate phải tránh mang thai vì thuốc này có thể gây bất thường cho thai nhi. Methotrexate thường được dùng cùng với các loại thuốc khác cho IBD và / hoặc bệnh vẩy nến.
  • Otezla (apremilast): Otezla là thuốc uống và là thuốc đầu tiên được chấp thuận sử dụng để điều trị bệnh viêm khớp vảy nến ở người lớn và cũng được chấp thuận sử dụng trong bệnh vảy nến thể mảng. Các tác dụng phụ được báo cáo phổ biến nhất trong các thử nghiệm lâm sàng là buồn nôn, nhức đầu và tiêu chảy, nhưng những tác dụng này thường được cải thiện sau một vài tuần điều trị.
  • Stelara (ustekinumab): Stelara lần đầu tiên được chấp thuận để điều trị bệnh vẩy nến và bây giờ cũng được chấp thuận để điều trị bệnh Crohn. Stelara là một loại thuốc sinh học là chất chẹn interleukin (IL) -12 và IL-23. Stelara ban đầu được tiêm qua đường tĩnh mạch nhưng sau liều đầu tiên được tiêm tại nhà qua đường tiêm. Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm cảm thấy mệt mỏi, phản ứng tại chỗ tiêm, nhức đầu và các triệu chứng giống như cảm lạnh.

Một lời từ rất tốt

Bằng chứng đang gia tăng rằng bệnh vẩy nến và IBD có xu hướng xảy ra cùng nhau thường xuyên hơn so với suy nghĩ trong những thập kỷ trước. Vẫn chưa rõ liệu mắc bệnh vẩy nến có làm cho một người cũng có khả năng phát triển một dạng IBD hay không. Trong một số trường hợp, các loại thuốc được sử dụng để điều trị IBD cũng được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến. Hầu hết các trường hợp bệnh vẩy nến được coi là nhẹ đến trung bình và có thể được điều trị bằng liệu pháp ánh sáng hoặc thuốc bôi. Đối với những trường hợp bệnh vẩy nến nặng hơn, với 5% đến 10% cơ thể bị ảnh hưởng hoặc hơn, thuốc uống hoặc sinh học cũng có thể được sử dụng. Cũng như với IBD, điều quan trọng là phải tiếp tục điều trị bệnh vẩy nến để ngăn ngừa bùng phát. Có rất nhiều phương pháp điều trị mới cho bệnh vẩy nến hiện đang được nghiên cứu và tương lai cho việc điều trị bệnh vẩy nến là rất sáng sủa.