Chúng ta tiến gần đến một phương pháp điều trị chức năng cho HIV như thế nào?

Posted on
Tác Giả: John Pratt
Ngày Sáng TạO: 15 Tháng MộT 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 20 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Chúng ta tiến gần đến một phương pháp điều trị chức năng cho HIV như thế nào? - ThuốC
Chúng ta tiến gần đến một phương pháp điều trị chức năng cho HIV như thế nào? - ThuốC

NộI Dung

Một phương pháp chữa trị chức năng là một giả thuyết dựa trên bằng chứng mà theo đó HIV có thể được kiểm soát mà không cần sử dụng các loại thuốc mãn tính. Trái ngược với vắc-xin tiệt trùng, trong đó HIV sẽ bị loại bỏ hoàn toàn khỏi cơ thể, một phương pháp chữa trị chức năng phục vụ nhiều hơn theo đường thuyên giảm, trong đó vi rút không thể gây bệnh ngay cả khi dấu vết của vi rút vẫn còn.

Đã có nhiều sự nhiệt tình và hầu như nhiều tranh cãi xung quanh triển vọng của một phương pháp chữa bệnh chức năng. Françoise Barré-Sinoussi, người đồng phát hiện ra HIV, đã tuyên bố vào năm 2013 rằng cô ấy hoàn toàn tin tưởng rằng một phương pháp chữa trị như vậy có thể được tìm thấy "trong vòng 30 năm tới." Ngược lại, Robert Gallo (cũng được cho là đã phát hiện ra HIV) coi khái niệm này là thiếu sót và tin rằng các phần của lý thuyết "không có khả năng hoạt động."

Làm thế nào một phương pháp chữa bệnh chức năng có thể hoạt động

Một trong những thách thức lớn nhất mà các nhà nghiên cứu phải đối mặt là các tế bào và mô của cơ thể (được gọi là các ổ chứa tiềm ẩn), nơi HIV có thể tồn tại ngay cả khi đối mặt với sự ức chế hoàn toàn của virus. Ẩn bên trong các ổ chứa tế bào này là mã di truyền của HIV mà hệ thống miễn dịch không thể phát hiện được.


Vì vi rút không chủ động sao chép - mà được mang theo một cách thụ động khi tế bào chủ nhân lên - nên phần lớn nó không bị ảnh hưởng bởi các loại thuốc kháng vi rút (vì thuốc chống vi rút hoạt động bằng cách làm gián đoạn một giai đoạn trong vòng đời của vi rút chứ không phải của vật chủ).

Có một số mô hình đang được khám phá để giải quyết vấn đề này:

  • Thanh lọc các hồ chứa tiềm ẩn. Một số nhà khoa học đã chỉ ra rằng, bằng cách kích thích các ổ chứa, HIV có thể được kích hoạt trở lại và giải phóng khỏi các khu bảo tồn ẩn giấu của chúng. Làm như vậy cho phép ART và các tác nhân trung hòa khác có thể tiêu diệt hoàn toàn loại vi-rút mới được loại bỏ, một chiến lược được gọi là "kick-kill". Một số loại thuốc có khả năng làm sạch các bể chứa quan trọng này nhưng cho đến nay, chỉ một phần. Các kết hợp thuốc mới hơn được hy vọng sẽ cải thiện những kết quả này.
  • Kích thích cơ thể sản sinh ra kháng thể “sát thủ”. Có những loại protein miễn dịch, được gọi là kháng thể, được cơ thể sản xuất để phản ứng với nhiễm trùng. Một số trong số này có khả năng vô hiệu hóa HIV. Vấn đề là HIV đột biến quá nhanh nên không bao giờ có đủ số lượng lớn các kháng thể "giết người" để vô hiệu hóa tất cả các chủng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng một số cá nhân hiếm hoi có các kháng thể trung hòa trên diện rộng chuyên biệt (BnAbs) có thể tiêu diệt một loạt các đột biến HIV. Các nhà khoa học đang khám phá các cách để kích thích các tác nhân tự nhiên này, chiến lược có thể giúp thực hiện lời hứa "kick-kill"

Bằng chứng hỗ trợ một phương pháp chữa trị chức năng

Trong khi nghiên cứu về một phương pháp chữa bệnh chức năng đã được đặt ra trong một số năm, ba sự kiện cụ thể đã cung cấp bằng chứng khái niệm cơ bản.


Đứng đầu trong số đó là một bệnh nhân được cho là đã "chữa khỏi" HIV vào năm 2009. Timothy Brown (Bệnh nhân Berlin) là một người Mỹ dương tính với HIV sống ở Berlin, người đã được cấy ghép tủy xương thử nghiệm để điều trị bệnh bạch cầu cấp tính của mình. Các bác sĩ đã chọn một người hiến tế bào gốc có hai bản sao của một đột biến di truyền được gọi là CCR5-delta-32, được biết là có khả năng kháng lại HIV trong một số ít người.

Các xét nghiệm định kỳ được thực hiện ngay sau khi cấy ghép cho thấy kháng thể HIV trong máu của Brown đã giảm xuống mức cho thấy việc tiêu diệt hoàn toàn virus. Các sinh thiết sau đó xác nhận không có bằng chứng nào về HIV trong bất kỳ mô nào của Brown, hỗ trợ cho tuyên bố rằng người đàn ông thực sự đã được chữa khỏi. Trong khi nguy cơ tử vong được coi là quá cao để khám phá cấy ghép tủy xương như một lựa chọn chữa bệnh, trường hợp này ít nhất đã cung cấp bằng chứng cho thấy trên thực tế, có thể chữa khỏi.

Trong khi đó, các nhà khoa học khác đang nghiên cứu các tác nhân thử nghiệm có khả năng thanh lọc HIV khỏi các ổ chứa tiềm ẩn của chúng. Một trong những nghiên cứu đầu tiên được tiến hành tại Đại học Bắc Carolina vào năm 2009 đã chứng minh rằng một nhóm thuốc được gọi là chất ức chế histone deacetylase (HDAC) có thể kích hoạt lại HIV tiềm ẩn ở mức thuốc được coi là an toàn và có thể dung nạp được.


Trong khi các nghiên cứu tiếp theo đã gợi ý rằng việc sử dụng một tác nhân HDAC đơn lẻ chỉ có thể kích hoạt lại một phần, có một số bằng chứng cho thấy liệu pháp HDAC kết hợp hoặc các loại thuốc chống ung thư mới hơn (được gọi là hợp chất ingenol) có thể loại bỏ hoàn toàn HIV tiềm ẩn khỏi hồ chứa.

Con đường phía trước

Có vẻ đầy hứa hẹn như tất cả các nghiên cứu, họ đưa ra nhiều câu hỏi giống như câu trả lời. Đứng đầu trong số họ:

  • Liệu việc loại bỏ HIV khỏi các ổ chứa của nó có đủ để đảm bảo rằng vi-rút không tái lập các ổ chứa trong các tế bào giống nhau (hoặc khác) không?
  • Về mặt lý thuyết, các kháng thể vô hiệu hóa rộng rãi có thể quan trọng như thế nào đối với một phương pháp chữa trị chức năng cho rằng việc kích thích một kháng thể đơn lẻ thuộc loại này là tốt nhất?
  • Làm sao chúng ta có thể chắc chắn rằng sự bùng phát trở lại của virus sẽ không xảy ra như đã từng xảy ra với trường hợp em bé Mississippi và những nỗ lực thất bại khác?

Mặc dù chúng tôi có vẻ đang đi đúng hướng, nhưng điều quan trọng là phải xem nghiên cứu với sự lạc quan được bảo vệ. Ngay cả khi các nhà khoa học tiếp tục khám phá những bí ẩn xung quanh HIV, không có tiến bộ nào trong số những tiến bộ này thậm chí còn cho thấy một cách mơ hồ rằng các quy tắc về phòng ngừa và điều trị HIV đã thay đổi.

Nếu có bất cứ điều gì, với bằng chứng cho thấy việc phát hiện và can thiệp sớm là chìa khóa để chữa khỏi bệnh, thì việc bắt buộc phải cảnh giác có lẽ là quan trọng hơn bao giờ hết.