Thuốc điều trị bệnh vẩy nến trong đường ống

Posted on
Tác Giả: Judy Howell
Ngày Sáng TạO: 2 Tháng BảY 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 8 Có Thể 2024
Anonim
VAI TRÒ CỦA IL12, 23 TRONG ĐIỀU TRỊ VẢY NẾN | CA LÂM SÀNG | ThS. BS. Nguyễn Ngọc Oanh
Băng Hình: VAI TRÒ CỦA IL12, 23 TRONG ĐIỀU TRỊ VẢY NẾN | CA LÂM SÀNG | ThS. BS. Nguyễn Ngọc Oanh

NộI Dung

Nhờ những nỗ lực cần mẫn của khoa học, các phương pháp điều trị bệnh vẩy nến (PD) liên tục xuất hiện. Và cuộc tìm kiếm vẫn đang tiếp tục cho những phương pháp điều trị an toàn hơn và hiệu quả hơn trong nỗ lực cải thiện cuộc sống của những người đang sống trong tình trạng rất suy nhược này.

Phương pháp điều trị bệnh PD hiện đang trông như thế nào

Không có cách chữa khỏi bệnh vảy nến và điều trị hiện tại nhằm mục đích giảm đau, giảm viêm và sưng, giữ cho các khớp hoạt động bình thường, đồng thời ngăn ngừa và giảm tổn thương khớp và / hoặc da. Các bác sĩ đề xuất phương pháp điều trị dựa trên mức độ nghiêm trọng của bệnh và phản ứng của một người đối với việc điều trị. Các liệu pháp cụ thể cho bệnh vẩy nến bao gồm NSAID, corticosteroid, DMARD, sinh học và phương pháp điều trị tại chỗ.

Thuốc chống viêm không steroid

Thuốc chống viêm không steroid (NSAID), bao gồm thuốc không kê đơn (OTC) như ibuprofen và aspirin, cũng như NSAIDS theo toa, có thể giúp giảm viêm, sưng, đau khớp và cứng khớp. Chúng cũng có thể kiểm soát cơn đau và viêm liên quan đến các triệu chứng da.


Một số NSAID, khi dùng trong thời gian dài hoặc ở liều lượng cao, có thể gây ra các vấn đề về dạ dày, bao gồm loét và xuất huyết tiêu hóa. NSAID được gọi là chất ức chế COX-2, chỉ có sẵn theo đơn, dường như gây ra ít vấn đề hơn các NSAID khác và đã chứng minh thành công trong việc điều trị các triệu chứng của nhiều dạng viêm khớp tự miễn khác nhau, bao gồm cả bệnh vảy nến. Chúng cũng hiệu quả hơn để giảm đau và giảm viêm. Nhưng chúng đắt hơn và có những rủi ro đi kèm, bao gồm tăng nguy cơ đau tim và đột quỵ ở một số người.

Chất ức chế COX-2 so với Opioid cho chứng đau lưng hoặc cổ

Corticosteroid

Corticosteroid là thuốc được dùng bằng đường uống hoặc tiêm để giảm sưng và viêm khớp và gân nghiêm trọng. Chúng thường được kê đơn trong thời gian ngắn để rút ngắn thời gian bùng phát PD. Các bác sĩ cố gắng chỉ kê đơn khi cần thiết với PD vì chúng có thể làm trầm trọng thêm các tổn thương da sau khi ngừng điều trị.

Thuốc chống đau bụng điều chỉnh bệnh (DMARD)

Thuốc chống đau bụng điều chỉnh bệnh (DMARD) được kê đơn khi NSAID không hoạt động và bệnh tiến triển rõ ràng. Chúng có thể làm giảm các triệu chứng nghiêm trọng hơn và cố gắng làm chậm và ngừng tổn thương khớp và mô cũng như sự tiến triển của PsA. Chúng cũng có thể giúp giảm viêm liên quan đến bệnh vẩy nến.


Các DMARD hữu ích cho những người bị bệnh vẩy nến bao gồm thuốc chống sốt rét, thuốc ức chế miễn dịch, sinh học và sulfasalazine.

Thuốc chống sốt rét

Thuốc chống sốt rét thường được kê cho những người bị viêm khớp dạng thấp, vì chúng đã thành công trong việc điều trị tình trạng viêm mãn tính toàn thân (toàn thân) này. Họ cũng đã thành công đối với một số trường hợp mắc bệnh vảy nến. Tuy nhiên, một số loại thuốc chống sốt rét, chẳng hạn như Plaquenil (Hydroxychloroquine), không được khuyến khích cho những người có các triệu chứng về da, vì chúng có thể khiến da bùng phát nghiêm trọng.

Thuốc ức chế miễn dịch

Thuốc ức chế miễn dịch là DMARDs ức chế phản ứng hoạt động quá mức của hệ thống miễn dịch.

Methotrexate là một DMARD và một loại thuốc ức chế miễn dịch. Nó đã thành công trong việc điều trị các triệu chứng ở da và khớp của PD. Nó có thể giúp ngăn ngừa sự phá hủy khớp và tàn tật.

Imuran là một loại thuốc ức chế miễn dịch khác có tác dụng chống viêm mạnh. Các triệu chứng về da và khớp của PD đều đáp ứng tốt với Imuran.


Sinh học

Sinh học tiêm, chẳng hạn như Humira và Enbrel, cũng được coi là DMARD. Một số sinh phẩm phải được sử dụng bằng cách truyền tĩnh mạch (IV). Những loại thuốc này chứa các hợp chất nhắm vào các hóa chất cụ thể trong hệ thống miễn dịch chịu trách nhiệm gây ra bệnh vẩy nến và các triệu chứng PsA.

Tìm hiểu về sinh học và công dụng của chúng

Acthar là một dạng tiêm sinh học khác. Nó giúp cơ thể sản xuất hormone steroid của riêng mình để điều chỉnh chứng viêm. Acthar được thiết kế để sử dụng trong thời gian ngắn và như một phần bổ sung cho các liệu pháp PD hiện tại của bạn.

Sulfasalazine

Azulfidine (sulfasalazine) là một loại thuốc sulfonamide (một nhóm thuốc bao gồm cả kháng sinh và không kháng sinh), nhưng nó cũng được coi là một DMARD. Những người bị dị ứng với sulfa không nên dùng nó. Theo Tổ chức Bệnh vẩy nến Quốc gia, ít nhất một phần ba số người bị PsA phản ứng nhanh với sulfasalazine.

Điều trị tại chỗ

Thuốc bôi là thuốc bôi trực tiếp lên da. Chúng thường là phương pháp điều trị đầu tiên cho bệnh vẩy nến. Chúng được thiết kế để làm chậm và / hoặc bình thường hóa sự phát triển của da và giảm viêm. Các phương pháp điều trị tại chỗ có sẵn không cần kê đơn, theo toa và corticosteroid do bác sĩ kê đơn. 

Điều quan trọng là phải hợp tác chặt chẽ với bác sĩ của bạn khi điều trị bệnh vẩy nến. Mỗi trường hợp PD là khác nhau và phải được đánh giá và điều trị trên cơ sở từng trường hợp.

Điều trị răng miệng mới

Phương pháp điều trị bằng đường uống mới cho bệnh vẩy nến hoạt động khác với các viên thuốc trước đây vì chúng nhắm mục tiêu có chọn lọc các phân tử trong hệ miễn dịch. Chúng hoạt động để điều chỉnh quá trình viêm bên trong tế bào để điều chỉnh phản ứng viêm hoạt động quá mức ở những người bị PD.

Otezla (apremilast) là một trong những loại thuốc phân tử mới và nó điều trị PD bằng cách điều chỉnh tình trạng viêm trong các tế bào cụ thể. Nó có sẵn dưới dạng viên thuốc 30 miligam để uống hai lần mỗi ngày và phải được uống liên tục để duy trì sự cải thiện triệu chứng.

Thuốc trong đường ống

Thuốc điều trị bệnh vẩy nến hiện đang được phát triển và thử nghiệm, và vẫn chưa được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) phê duyệt. Mỗi loại thuốc phải trải qua ba giai đoạn thử nghiệm lâm sàng trước khi FDA có thể đưa ra quyết định có chấp thuận hay không.

Thử nghiệm giai đoạn I đánh giá tính an toàn của một loại thuốc mới và thử nghiệm giai đoạn II đánh giá hiệu quả của loại thuốc đó. Cuối cùng, các thử nghiệm giai đoạn III theo dõi các tác dụng phụ và so sánh thuốc với các phương pháp điều trị tương tự khác đã có trên thị trường.

BMS-986165

BMS-986165, là một chất ức chế tyrosine kinase 2 (TYK2) chọn lọc, uống để điều trị bệnh vẩy nến. Nghiên cứu đã được trình bày cho thấy nó tương đương sinh học với Humira.

Các nghiên cứu giai đoạn II cho thấy điều trị có hiệu quả ở 75% số người tham gia nghiên cứu tính đến 12thứ tự tuần. Trong giai đoạn III, các nhà nghiên cứu xác nhận BMS-986165 tương đương với Humira, vì không có sự khác biệt có ý nghĩa về hiệu quả, độ an toàn hoặc phản ứng của hệ miễn dịch. Bước tiếp theo trong Giai đoạn III là xem xét dữ liệu 24 tuần.

BCD-085

BCD-085, hoặc Patera, là một loại kháng thể đơn dòng sinh học và đang được thử nghiệm cho những người bị bệnh vẩy nến và viêm khớp vẩy nến. Trong các thử nghiệm ở giai đoạn I, các nhà nghiên cứu đã xác định liều lượng an toàn nhất cho những người bị bệnh vẩy nến. Trong giai đoạn II, các nhà nghiên cứu nhận thấy phần lớn bệnh nhân đáp ứng Tiêu chí của Trường Cao đẳng Thấp khớp Hoa Kỳ để cải thiện. Trong Giai đoạn III, các nhà nghiên cứu dự định đánh giá hiệu quả và độ an toàn của BCD-0085 so với giả dược. Giai đoạn III hiện đang trong giai đoạn tuyển dụng và việc nghiên cứu sẽ hoàn thành vào tháng 1 năm 2021.

UCB4940

UCB4940, hoặc Bimekizumab, là một loại sinh học đang được thử nghiệm để điều trị bệnh viêm khớp vảy nến và bệnh vảy nến thể mảng mãn tính. Nghiên cứu trước đây cho thấy tỷ lệ đáp ứng đầy hứa hẹn và cải thiện triệu chứng. Thuốc được thiết kế để trung hòa một cách có chọn lọc và mạnh mẽ cả IL-7A và IL-17F, hai protein liên quan đến quá trình viêm.

Sau giai đoạn IIb, các nhà nghiên cứu xác định rằng 46 phần trăm bệnh nhân dùng thuốc đã cải thiện ít nhất 50 phần trăm triệu chứng cho cả khớp và da, và sự cải thiện tiếp tục đến tuần 48. Bimekizumab hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng III.

BI655066

BI655066, hoặc Risankizumab, chứa một kháng thể để nhắm mục tiêu interleukin 23A (IL-23A), một hóa chất gây viêm trong cơ thể. Tất cả các nghiên cứu giai đoạn đã hoàn tất, nhưng nó vẫn chưa được FDA chấp thuận để điều trị bất kỳ tình trạng sức khỏe nào. Trước đây nó đã được nghiên cứu để điều trị bệnh vẩy nến và viêm khớp vẩy nến.

Trong các thử nghiệm lâm sàng, các nhà nghiên cứu nhận thấy Risankizumab có liên quan đến việc cải thiện các triệu chứng da của bệnh vảy nến ngay từ tuần thứ 2 và duy trì đến 66 tuần sau khi bắt đầu điều trị. Các thử nghiệm giai đoạn III xác nhận nó có hiệu quả và có thể dung nạp được đối với bệnh nhân PD. Nhà sản xuất thuốc đã nộp đơn đăng ký với FDA và bằng sáng chế của Risankizumab đang chờ xử lý.

Một lời từ rất tốt

Các lựa chọn điều trị sắp tới cho bệnh vảy nến có nghĩa là có nhiều lựa chọn hơn để giảm các triệu chứng về khớp và da cho hàng triệu người bị ảnh hưởng bởi căn bệnh tự miễn thường gây suy nhược này. Và trong khi có rất nhiều lựa chọn ngoài kia, các nhà nghiên cứu biết rằng họ có thể làm được nhiều hơn thế. Điều này rất quan trọng bởi vì PD là một tình trạng có kinh nghiệm khác nhau ở mỗi người bị ảnh hưởng. Một số người có các triệu chứng nhẹ không làm thay đổi cuộc sống trong khi những người khác có các triệu chứng nghiêm trọng ảnh hưởng đến họ hàng ngày.

Cho dù bạn có những triệu chứng nào, hãy làm việc với bác sĩ để tìm ra những phương pháp điều trị phù hợp nhằm cải thiện triển vọng và chất lượng cuộc sống của bạn. Tương lai của việc điều trị PD tiếp tục tươi sáng và các nhà nghiên cứu hy vọng rằng một ngày nào đó, bệnh PD có thể được chữa khỏi, hoặc ít nhất, số người thuyên giảm sẽ nhiều hơn số người phải vật lộn với các triệu chứng hàng ngày.

Tìm hiểu về sinh học và công dụng của chúng
  • Chia sẻ
  • Lật
  • E-mail
  • Bản văn