Xét nghiệm sàng lọc các bệnh thông thường

Posted on
Tác Giả: Clyde Lopez
Ngày Sáng TạO: 22 Tháng Tám 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 10 Có Thể 2024
Anonim
Xét nghiệm sàng lọc các bệnh thông thường - SứC KhỏE
Xét nghiệm sàng lọc các bệnh thông thường - SứC KhỏE

NộI Dung

Xét nghiệm sàng lọc là gì?

Xét nghiệm sàng lọc được thực hiện để phát hiện các rối loạn hoặc bệnh tiềm ẩn về sức khỏe ở những người không có bất kỳ triệu chứng bệnh nào. Mục đích là phát hiện sớm và thay đổi lối sống hoặc giám sát, để giảm nguy cơ mắc bệnh, hoặc phát hiện sớm để điều trị hiệu quả nhất. Các xét nghiệm sàng lọc không được coi là chẩn đoán, nhưng được sử dụng để xác định một nhóm nhỏ dân số cần có xét nghiệm bổ sung để xác định sự hiện diện hay không có bệnh.

Khi nào thì xét nghiệm sàng lọc hữu ích?

Điều làm cho một bài kiểm tra sàng lọc có giá trị là khả năng phát hiện các vấn đề tiềm ẩn, đồng thời giảm thiểu các kết quả không rõ ràng, không rõ ràng hoặc khó hiểu. Mặc dù các xét nghiệm sàng lọc không phải là chính xác 100% trong mọi trường hợp, nhưng nhìn chung, việc thực hiện các xét nghiệm sàng lọc vào những thời điểm thích hợp, theo khuyến nghị của nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn sẽ có giá trị hơn là hoàn toàn không có. Tuy nhiên, một số xét nghiệm sàng lọc, khi được sử dụng ở những người không có nguy cơ mắc bệnh cao, hoặc khi xét nghiệm các bệnh rất hiếm gặp, có thể gây ra nhiều vấn đề hơn là giúp ích.


Một số xét nghiệm sàng lọc thông thường

Đảm bảo tham khảo ý kiến ​​nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về thời gian và tần suất thích hợp của tất cả các xét nghiệm sàng lọc dựa trên tuổi tác, sức khỏe tổng thể và tiền sử bệnh của bạn. Sau đây là một số ví dụ về các xét nghiệm sàng lọc phổ biến:

Đo cholesterol

Cholesterol là một chất sáp có thể được tìm thấy ở tất cả các bộ phận của cơ thể. Nó hỗ trợ sản xuất màng tế bào, một số hormone và vitamin D. Cholesterol trong máu đến từ 2 nguồn: thực phẩm bạn ăn và sản xuất trong gan của bạn. Tuy nhiên, gan sản xuất tất cả cholesterol mà cơ thể cần.

Cholesterol và các chất béo khác được vận chuyển trong máu dưới dạng các hạt hình cầu, được gọi là lipoprotein. 2 lipoprotein được biết đến nhiều nhất là lipoprotein mật độ thấp (LDL), hoặc cholesterol "xấu", và lipoprotein mật độ cao (HDL), hoặc cholesterol "tốt".

Kiểm tra cholesterol được thực hiện bằng xét nghiệm máu. Những người có số đo cholesterol cao từ mẫu máu có nguy cơ mắc bệnh tim mạch (CVD) cao hơn những người có cholesterol trong giới hạn bình thường. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người có cholesterol cao có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tim bằng cách giảm lượng cholesterol của họ. Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu là mọi người vẫn có thể mắc bệnh tim ngay cả khi có mức cholesterol trong giới hạn bình thường.


Xét nghiệm máu trong phân

Máu ẩn trong phân được phát hiện bằng cách phân tích bằng kính hiển vi hoặc bằng các xét nghiệm hóa học để tìm hemoglobin (máu) trong phân. Những người có máu trong phân của họ có thể có dấu hiệu phát triển ung thư của ung thư đại trực tràng. Xét nghiệm yêu cầu thu thập 3 mẫu phân được kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm máu. Điều quan trọng cần hiểu là khi có máu trong mẫu phân, nó có thể là do các yếu tố không phải ung thư khác, chẳng hạn như một số loại thuốc hoặc thức ăn, xuất huyết tiêu hóa hoặc bệnh trĩ. Nhiều tổ chức, bao gồm cả Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, khuyến cáo nên bắt đầu xét nghiệm ở tuổi 50.

Xét nghiệm Pap (còn gọi là xét nghiệm Pap smear)

Xét nghiệm tế bào cổ tử cung là mẫu tế bào được lấy từ cổ tử cung ở phụ nữ để tìm kiếm những dấu hiệu thay đổi tế bào của ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung là một xét nghiệm sàng lọc quan trọng ở phụ nữ có quan hệ tình dục dưới 65 tuổi, nhằm phát hiện ung thư ở giai đoạn thường không có triệu chứng. Điều quan trọng cần hiểu là xét nghiệm tế bào cổ tử cung có thể được coi là "bất thường", nhưng không có nghĩa là một người bị ung thư cổ tử cung. Một số tổ chức cũng khuyến nghị sàng lọc HPV (vi rút u nhú ở người) ở một số quần thể nhất định trong quá trình làm xét nghiệm Pap smear.


Kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt (PSA)

Xét nghiệm máu này đo nồng độ kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt (PSA) trong máu. Kháng nguyên là bất kỳ chất nào tạo ra phản ứng từ hệ thống miễn dịch của một người. Mức độ kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt có thể tăng lên khi bị ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hiểu rằng các tình trạng tuyến tiền liệt lành tính khác cũng có thể làm tăng PSA, chẳng hạn như tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH), là tình trạng sưng không phải ung thư của tuyến tiền liệt. Xét nghiệm PSA không được khuyến khích cho tất cả nam giới và có nhiều tranh cãi về vai trò của xét nghiệm PSA. Một số tổ chức, chẳng hạn như Lực lượng Đặc nhiệm Dịch vụ Phòng ngừa Hoa Kỳ (USPSTF), hiện khuyến nghị không nên sàng lọc PSA. Ưu và nhược điểm của sàng lọc PSA luôn phải được thảo luận với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn trước khi xét nghiệm. Một số nhược điểm bao gồm kiểm tra và thủ tục không cần thiết, chi phí không cần thiết, và sự lo lắng gia tăng đáng kể.

Chụp nhũ ảnh

Nhiều tổ chức, bao gồm USPSTF, khuyến nghị chụp nhũ ảnh tầm soát ung thư vú mỗi 1 năm đến 2 năm sau tuổi 50. Xét nghiệm này được thực hiện cùng với khám vú lâm sàng

Nội soi đại tràng

Nhiều tổ chức, bao gồm USPSTF, khuyến nghị tầm soát ung thư ruột kết hoặc polyp đại tràng ở tuổi 50, sớm hơn nếu bạn có tiền sử gia đình hoặc các yếu tố nguy cơ khác

Bệnh tiểu đường hoặc tiền tiểu đường

Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) khuyến cáo rằng tất cả người lớn nên tầm soát bệnh đái tháo đường hoặc tiền đái tháo đường bắt đầu từ 45 tuổi, bất kể cân nặng. Ngoài ra, những người không có các triệu chứng của bệnh tiểu đường nên được kiểm tra nếu họ bị thừa cân hoặc béo phì và có thêm một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.

Tham khảo ý kiến ​​nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về tất cả những điều này cũng như các loại xét nghiệm sàng lọc khác, dựa trên tình trạng sức khỏe của bạn, vì không phải tất cả các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đều đồng ý về việc xét nghiệm sàng lọc nào nên được thực hiện và cho nhóm tuổi nào.