CD Markers trong chẩn đoán và điều trị ung thư

Posted on
Tác Giả: Christy White
Ngày Sáng TạO: 6 Có Thể 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 14 Có Thể 2024
Anonim
CD Markers trong chẩn đoán và điều trị ung thư - ThuốC
CD Markers trong chẩn đoán và điều trị ung thư - ThuốC

NộI Dung

Dấu hiệu CD, còn được gọi là kháng nguyên CD, là các loại phân tử cụ thể được tìm thấy trên bề mặt tế bào giúp phân biệt loại tế bào này với loại tế bào khác. Trên thực tế, tên viết tắt "CD" là viết tắt của "cụm sự khác biệt", danh pháp của nó được thành lập lần đầu tiên vào năm 1982.

Trong khi một số người có thể quen thuộc với các thuật ngữ CD4 và CD8, chúng phân biệt các tế bào miễn dịch phòng thủ được gọi là tế bào T, có không ít hơn 371 kháng nguyên CD được biết đến "gắn thẻ" hầu như mọi tế bào của cơ thể, cung cấp cho mỗi tế bào dấu hiệu riêng biệt. .

Những điểm đánh dấu CD cho chúng tôi biết

Trong số những thứ khác, các điểm đánh dấu CD được sử dụng để phân loại các tế bào bạch cầu do cơ thể sản xuất để giúp chống lại nhiễm trùng. Các tế bào này là thành phần trung tâm của hệ thống miễn dịch hoạt động song song để xác định, nhắm mục tiêu và vô hiệu hóa các mầm bệnh gây bệnh. Ví dụ, tế bào T CD4 được gọi là "tế bào trợ giúp" vì vai trò của chúng là phát tín hiệu cho các tế bào T CD8 "sát thủ" tấn công và vô hiệu hóa một mầm bệnh cụ thể.


Bằng cách hiểu được những động lực này, các nhà khoa học có thể sử dụng các dấu hiệu CD để không chỉ đánh giá tình trạng nhiễm trùng (được đo bằng sự tăng hoặc giảm số lượng tế bào) mà còn đo sức mạnh của chính hệ thống miễn dịch.

Một số tình trạng nhất định như HIV và cấy ghép nội tạng có liên quan đến việc ức chế miễn dịch, có nghĩa là cơ thể ít có khả năng hình thành hệ thống phòng thủ miễn dịch bằng chứng là không có tế bào T CD4. Trước khi danh pháp CD ra đời, việc đánh giá chức năng miễn dịch của một người khó hơn nhiều và không đặc hiệu.

CD Markers trong chẩn đoán và điều trị ung thư

Ngoài việc theo dõi tình trạng nhiễm trùng và miễn dịch, kháng nguyên CD có thể được sử dụng để phát hiện sự phát triển bất thường của các tế bào được gọi là ung thư. Tế bào tân sinh có thể lành tính (không ung thư), ác tính (ung thư) hoặc tiền ung thư, nhưng, giống như bất kỳ tế bào nào khác, có các dấu hiệu CD mà các nhà khoa học có thể sử dụng để xác định chúng.

Dấu hiệu CD không chỉ quan trọng trong chẩn đoán ung thư mà còn có thể giúp xác định loại điều trị nào có thể thành công nhất và đo lường mức độ hiệu quả của phương pháp điều trị bằng cách theo dõi những thay đổi trong các dấu hiệu CD liên quan.


Hơn nữa, các nhà nghiên cứu ngày nay có thể tạo ra một loại protein phòng thủ, được gọi là kháng thể đơn dòng (mAb), phù hợp với một kháng nguyên CD cụ thể. Những kháng thể nhân bản này bắt chước những kháng thể do cơ thể tạo ra và có thể được sử dụng để chống lại bệnh ung thư trong một hình thức điều trị được gọi là liệu pháp miễn dịch nhắm mục tiêu. Khi được tiêm vào cơ thể, mAbs có thể hoạt động theo những cách đặc biệt tùy thuộc vào thiết kế của chúng:

  • Chúng có thể liên kết với dấu hiệu CD trên tế bào ung thư và tiêu diệt chúng.
  • Chúng có thể liên kết với dấu hiệu CD trên tế bào ung thư và ngăn chặn khả năng tái tạo, ngăn chặn hoặc làm chậm sự phát triển của chúng.
  • Chúng có thể khuếch đại khả năng phòng thủ tự nhiên của cơ thể đặc biệt đối với bệnh ung thư đó.

Bên ngoài cơ thể, mAbs thường được sử dụng trong chẩn đoán để phát hiện các kháng nguyên CD cụ thể trong các mẫu máu, mô hoặc dịch cơ thể.

Liệu pháp miễn dịch nhắm mục tiêu cho bệnh ung thư

Các kháng thể đơn dòng ngày nay được sử dụng để điều trị nhiều bệnh khác nhau, bao gồm một số rối loạn tự miễn dịch và một số loại ung thư. Hiệu quả của chúng có thể khác nhau, với một số bệnh ung thư phản ứng tốt hơn những bệnh ung thư khác.


Như đã nói, những tiến bộ trong công nghệ di truyền đã dẫn đến ngày càng nhiều các tác nhân điều trị miễn dịch được chấp thuận. Trái ngược với hóa trị liệu thế hệ cũ nhắm vào các tế bào tái tạo nhanh, cả ung thư và khỏe mạnh, các loại thuốc thế hệ mới này chỉ nhắm mục tiêu đến những tế bào có "thẻ" CD cụ thể. Trong số các loại thuốc hiện đã được Cục Quản lý Dược phẩm Hoa Kỳ chấp thuận để sử dụng trong liệu pháp miễn dịch ung thư:

  • Adcetris (brentuximab vedotin) được sử dụng để điều trị ung thư hạch Hodgkin và ung thư hạch tế bào lớn anaplastic.
  • Arzerra (ofatumumab) được sử dụng để điều trị bệnh bạch cầu lymphocytic nhỏ (SLL) và bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính (CLL).
  • Blincyto (Blinatumomab) được sử dụng để điều trị một số loại bệnh bạch cầu lymphocytic cấp tính (ALL).
  • Campath (alemtuzumab) được sử dụng để điều trị CLL.
  • Gazyva (obinutuzumab) được sử dụng để điều trị SLL và CLL.
  • Herceptin (trastuzumab) được sử dụng để điều trị một số bệnh ung thư vú và dạ dày.
  • Kadycla (ado-trastuzumab emtansine) được sử dụng để điều trị một số loại ung thư vú.
  • Keytruda (pembrolizumab) được sử dụng để điều trị một số bệnh ung thư đầu và cổ.
  • Ontak (denleukin diftitox) được sử dụng để điều trị ung thư hạch ở da.
  • Opdivo (nivolumab) được sử dụng để điều trị ung thư phổi di căn và một số bệnh ung thư đầu và cổ.
  • Rituxan (rituximab) được sử dụng để điều trị một số loại ung thư hạch không Hodgkin (NHL).
  • Zevalin (ibritumomab tiuxetan) được sử dụng để điều trị một số loại NHL.