Sự khác biệt giữa ung thư nguyên phát và ung thư thứ phát

Posted on
Tác Giả: Charles Brown
Ngày Sáng TạO: 5 Tháng 2 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 19 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Sự khác biệt giữa ung thư nguyên phát và ung thư thứ phát - ThuốC
Sự khác biệt giữa ung thư nguyên phát và ung thư thứ phát - ThuốC

NộI Dung

Nhiều người trở nên nhầm lẫn về định nghĩa của ung thư nguyên phát so với thứ phát hoặc thứ hai. Ung thư nguyên phát được định nghĩa là vị trí ban đầu (cơ quan hoặc mô) nơi ung thư bắt đầu. Ngược lại, ung thư thứ hai hoặc thứ phát có thể được xác định theo một vài cách; như một ung thư nguyên phát mới ở một vùng khác của cơ thể hoặc như sự di căn (lây lan) của ung thư nguyên phát ban đầu sang một vùng khác của cơ thể.

Ví dụ, ung thư bắt đầu ở phổi được gọi là ung thư phổi nguyên phát. Nếu ung thư phổi di căn đến não, nó sẽ được gọi là ung thư phổi nguyên phát di căn đến não, hoặc ung thư não thứ cấp. Trong trường hợp này, tế bào ung thư trong não sẽ là tế bào ung thư phổi, không phải tế bào ung thư não. Ngược lại, một người có thể bị ung thư phổi nguyên phát và ung thư não nguyên phát thứ hai mà không liên quan đến nhau. Trong trường hợp này, các tế bào ung thư trong não sẽ là tế bào não chứ không phải tế bào phổi.

Ung thư nguyên phát

Như đã nói ở trên, ung thư nguyên phát đề cập đến bệnh ung thư ban đầu mà một người trải qua, cho dù đó là ung thư phổi, ung thư vú hay một loại ung thư khác. Có thể mắc nhiều hơn một bệnh ung thư nguyên phát; đôi khi những bệnh ung thư nguyên phát này được phát hiện cùng lúc, và đôi khi chúng xảy ra cách nhau hàng chục năm (xem bên dưới). Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì một số yếu tố nguy cơ gây ung thư, chẳng hạn như hút thuốc, làm tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư. Ngoài ra còn có một số hội chứng ung thư di truyền làm tăng nguy cơ ung thư ở nhiều cơ quan hoặc loại mô.


Ung thư nguyên phát thứ hai so với thứ phát

Thuật ngữ ung thư thứ hai và thứ phát đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau nhưng có thể có nghĩa khác nhau. Thuật ngữ ung thư thứ phát có thể đề cập đến di căn từ ung thư nguyên phát hoặc ung thư thứ hai không liên quan đến ung thư ban đầu. Khi thuật ngữ ung thư thứ hai được sử dụng, nó thường đề cập đến bệnh ung thư nguyên phát thứ hai, nói cách khác, một bệnh ung thư khác với bệnh ung thư đầu tiên, phát sinh ở một cơ quan hoặc mô khác.

Ung thư chính thứ hai

Ung thư nguyên phát thứ hai không liên quan trực tiếp đến ung thư nguyên phát, trong đó mỗi loại ung thư này phát sinh từ các đột biến diễn ra trong các tế bào khác nhau. Điều đó nói lên rằng, ung thư nguyên phát thứ hai phổ biến hơn ở những người đã bị ung thư nguyên phát hơn là ở những người không bị ung thư vì một số lý do. Bao gồm các:

  • Các yếu tố nguy cơ tương tự: Một số yếu tố nguy cơ của ung thư làm tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư. Ví dụ, hút thuốc có liên quan đến một số loại ung thư. Có một số bệnh ung thư liên quan đến việc uống quá nhiều rượu, v.v.
  • Khuynh hướng di truyền: Một số người thừa hưởng khuynh hướng mắc bệnh ung thư có thể làm tăng nguy cơ phát triển một số loại ung thư khác nhau. Ví dụ, đột biến ở gen ức chế khối u như đột biến gen BRCA2, làm tăng nguy cơ không chỉ ung thư vú mà còn cả buồng trứng. ung thư, ung thư tuyến tiền liệt, bệnh bạch cầu, ung thư tuyến tụy và ung thư phổi ở phụ nữ hút thuốc.
  • Các bệnh ung thư liên quan đến điều trị: Các phương pháp điều trị ung thư, chẳng hạn như nhiều loại thuốc hóa trị và xạ trị có thể làm tăng nguy cơ phát triển một bệnh ung thư khác. Ví dụ, một trong những loại thuốc hóa trị thường được sử dụng cho bệnh ung thư vú có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh bạch cầu. Ung thư nguyên phát thứ hai là một trong những tác dụng phụ tiềm ẩn lâu dài của việc điều trị ung thư là một lĩnh vực nghiên cứu tích cực, với các nghiên cứu tìm kiếm các lựa chọn xạ trị cũng như các loại thuốc hóa trị ít có khả năng dẫn đến ung thư nguyên phát thứ hai.

Với những người sống sót lâu hơn với bệnh ung thư, tỷ lệ mắc bệnh ung thư nguyên phát thứ hai dự kiến ​​sẽ tăng lên và đã đáng kể. Một nghiên cứu của Israel năm 2017 cho thấy trong số những người sống sót sau bệnh ung thư vú, 3,6% phát triển thành ung thư nguyên phát thứ hai trong vòng 5 năm kể từ lần chẩn đoán ban đầu và 8,2% trong vòng 10 năm kể từ khi được chẩn đoán. do tác động của bệnh ung thư nguyên phát thứ hai ở những người đã bị ung thư. Tại thời điểm hiện tại, ung thư nguyên phát thứ hai là nguyên nhân gây tử vong thứ hai (sau ung thư nguyên phát) ở những người bị ung thư đầu và cổ.


Với bệnh Hodgkin, việc điều trị bệnh thường khi còn trẻ kết hợp với tỷ lệ sống cao sẽ dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh ung thư thứ phát cao. Người ta cho rằng nguy cơ có thể cao từ 20% đến 30%. Vì lý do này, việc kiểm tra, chẳng hạn như MRI sàng lọc ung thư vú (thay vì chụp quang tuyến vú có thể bỏ sót tới 15% ung thư vú).

Ung thư thứ cấp ở những người sống sót sau ung thư hạch Hodgkin

Ung thư không rõ nguồn gốc

Trong một số trường hợp, vị trí ban đầu mà ung thư bắt đầu không được xác định và các bác sĩ có thể không chắc chắn liệu ung thư được chẩn đoán là ung thư thứ phát (di căn) từ ung thư chưa được tìm thấy hay thay vì ung thư nguyên phát. Cứ mỗi trăm người thì có 3 người bị ung thư, không tìm thấy vị trí chính của ung thư. Khi rơi vào trường hợp này, khối u thường được coi là ung thư di căn không rõ nguồn gốc nguyên phát.

Với việc cải tiến các xét nghiệm chẩn đoán và cấu hình phân tử, chẩn đoán ung thư không rõ nguồn gốc ít phổ biến hơn trước đây, nhưng điều này vẫn xảy ra. Lý do thường là vì một khối u rất "không biệt hóa." Tế bào ung thư có thể giống với tế bào bình thường, đôi khi khiến chúng tương đối khó phân biệt dưới kính hiển vi. Ngay cả khi không thể xác định được vị trí chính cho bệnh ung thư, các bác sĩ vẫn có thể điều trị bệnh ung thư đó.


Ung thư không phải lúc nào cũng có vị trí chính. Một ví dụ về điều này là ung thư hạch. Tuy nhiên, mặc dù vị trí chính bắt đầu của ung thư hạch bạch huyết có thể không được biết đến, nhưng nó không được coi là ung thư không rõ nguồn gốc. Những khối u như thế này có thể gây nhầm lẫn khi nói về ung thư nguyên phát và ung thư thứ hai, vì u lympho có thể được tìm thấy trong nhiều mô. Tuy nhiên, trong trường hợp này, tất cả các tế bào sẽ là tế bào ung thư hạch dưới kính hiển vi, vì vậy nếu tế bào ung thư trong dạ dày là tế bào ung thư hạch, nó sẽ là một phần của ung thư nguyên phát, nhưng nếu chúng là tế bào dạ dày, nó sẽ được coi là thứ hai ung thư nguyên phát.

Một lời từ Verywell

Các thuật ngữ xung quanh bệnh ung thư, đặc biệt là khi một người phát triển nhiều hơn một loại ung thư hoặc có bệnh di căn, có thể gây nhầm lẫn. Đồng thời, chúng tôi biết rằng điều rất quan trọng là phải là người ủng hộ chính bạn trong việc chăm sóc bạn, và hiểu biết về bệnh của bạn là điều cần thiết để làm được điều này. Hãy dành thời gian để tìm hiểu về bệnh ung thư của bạn. Hỏi rất nhiều câu hỏi. Nếu câu trả lời vẫn chưa rõ ràng, hãy hỏi lại. Và, đừng ngần ngại yêu cầu ý kiến ​​thứ hai trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào. Sự phân biệt giữa ung thư nguyên phát và ung thư thứ phát có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể trong các lựa chọn và phương pháp điều trị.