Sử dụng vắc xin DTaP để bảo vệ chống lại các bệnh truyền nhiễm

Posted on
Tác Giả: Marcus Baldwin
Ngày Sáng TạO: 17 Tháng Sáu 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 17 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Sử dụng vắc xin DTaP để bảo vệ chống lại các bệnh truyền nhiễm - ThuốC
Sử dụng vắc xin DTaP để bảo vệ chống lại các bệnh truyền nhiễm - ThuốC

NộI Dung

Vắc xin DTaP là vắc xin phối hợp dùng để chủng ngừa cho trẻ nhỏ chống lại ba bệnh truyền nhiễm khác nhau: bạch hầu, uốn ván và ho gà (ho gà).

Không nên nhầm lẫn nó với vắc-xin DTP có tác dụng miễn dịch chống lại các bệnh tương tự nhưng không còn được sử dụng ở Hoa Kỳ. Tương tự, vắc-xin TDaP bao gồm các bệnh tương tự nhưng chỉ được sử dụng cho trẻ lớn hơn và người lớn.

Tại sao DTaP lại thay thế DTP

Vắc xin DTP xuất hiện từ năm 1948 và là một trong những loại vắc xin đầu tiên kết hợp nhiều loại vắc xin vào một mũi tiêm. Nó kết hợp vắc-xin ho gà (được tạo ra năm 1914) với vắc-xin bạch hầu (1926) và vắc-xin uốn ván (1938). DTP đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc phòng chống những căn bệnh này, giảm tỷ lệ mắc bệnh ho gà hàng năm từ 200.000 vào những năm 1940 xuống chỉ còn hơn 20.000 ngày nay.

Bất chấp thành công của nó, các tác dụng phụ của vắc-xin DTP đã làm giảm dần việc sử dụng, dẫn đến sự gia tăng các ca nhiễm trùng và tử vong vào cuối thế kỷ 20.


Để giải quyết những thiếu sót này, các nhà khoa học đã phát triển một phiên bản an toàn hơn vào năm 1996 được gọi là vắc-xin DTaP. Chữ "a" trong DTaP không chỉ là ngẫu nhiên. Nó được sử dụng để mô tả thành phần ho gà tế bào của vắc xin. Theo định nghĩa, vắc-xin acellular là vắc-xin trong đó một thành phần của bệnh lây truyền được sử dụng thay vì toàn bộ tế bào đã bất hoạt.

Trong khi nhiều loại vắc xin toàn tế bào an toàn và hiệu quả, việc sử dụng toàn bộ khả năng lây nhiễm có nghĩa là chúng là một trong những loại vắc xin tồi tệ nhất trong số các loại vắc xin. Trong trường hợp ho gà, lớp vỏ bên ngoài của vi khuẩn bao gồm chất béo và polysaccharid là chất nội độc tố, có nghĩa là chúng có thể gây ra tình trạng viêm toàn thân. Vì lý do này, trẻ em được chủng ngừa DTP đôi khi bị sốt cao, co giật do sốt (co giật do sốt), và thậm chí ngất xỉu.

Ngược lại, vắc xin DTaP chỉ chứa các thành phần kháng nguyên của tế bào. Kháng nguyên là các protein mà hệ thống miễn dịch sử dụng để xác định và phát động cuộc tấn công chống lại một chất có hại. (Hãy coi chúng là "mùi hương" của sự lây lan hơn là bản thân sự lây lan.) Bằng cách loại bỏ nội độc tố và chỉ sử dụng kháng nguyên, vắc-xin DTaP có thể thúc đẩy phản ứng miễn dịch với ít tác dụng phụ hơn.


Chính vì lý do này mà Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) đã khuyến nghị rằng vắc xin DTP được thay thế bằng DTaP vào năm 1997.

Bạn muốn nói chuyện về vắc xin với người thân? Thực hành sử dụng huấn luyện viên trò chuyện ảo của chúng tôi

Các bệnh do DTaP ngăn chặn

Bạch hầu, uốn ván và ho gà đều là những bệnh do vi khuẩn gây ra, nếu không được điều trị kịp thời có thể gây bệnh nặng và tử vong. Bạch hầu và ho gà lây từ người sang người. Uốn ván xâm nhập vào cơ thể qua vết cắt hoặc vết thương.

  • Bạch hầu là do Corynebacterium diphtheriae vi khuẩn. Nó dễ dàng lây lan qua ho, hắt hơi hoặc tiếp xúc trực tiếp với một vật bị ô nhiễm, chẳng hạn như đồ chơi. Hai đến năm ngày sau khi tiếp xúc, chất độc từ vi khuẩn có thể gây ra các triệu chứng về đường hô hấp (bao gồm một lớp phủ dày, màu xám ở mũi hoặc cổ họng), suy nhược, sưng hạch bạch huyết và sốt. Nếu nó đi vào máu, nó có thể gây hại cho tim, thận và thần kinh.
  • Uốn ván là do Clostridium tetani vi khuẩn, các bào tử được tìm thấy trong đất, bụi và phân. Bệnh truyền nhiễm xâm nhập vào cơ thể qua da bị vỡ, thường khi da bị đâm thủng bởi một vật bị ô nhiễm như móng tay. Uốn ván thường được gọi là "lockjaw" vì nó có thể gây ra tình trạng căng cơ hàm nghiêm trọng. Điều này có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, gây khó thở và thậm chí khó nuốt.
  • Ho gà là do Bordetella pertussis vi khuẩn tự bám vào các đầu nhỏ giống như sợi lông (gọi là lông mao) nằm trên đường hô hấp trên. Vi khuẩn tiết ra chất độc không chỉ làm hỏng lông mao mà còn khiến đường hô hấp bị sưng tấy. Giống như bệnh bạch hầu, bệnh ho gà lây lan khi ho, hắt hơi, hoặc đơn giản là ở trong cùng một vùng trời trong một thời gian dài. Các triệu chứng xuất hiện trong vòng 5 đến 10 ngày kể từ ngày tiếp xúc và có thể bao gồm sốt nhẹ, ngưng thở (khoảng trống khi thở), nôn mửa, mệt mỏi và ho "gà trống" đặc trưng. Viêm phổi cũng có thể phát triển.

Khuyến nghị tiêm chủng

Vì tên của chúng rất giống nhau nên mọi người không chắc chắn liệu họ có cần chủng ngừa DTaP hay TDaP hay không. Hơn nữa, còn có vắc xin DT và Td, chỉ được sử dụng để phòng ngừa uốn ván và bạch hầu.


Sự khác biệt cơ bản trong các loại vắc xin này là chúng phù hợp với loại nào. Theo khuyến nghị của CDC:

  • DTaP được khuyên dùng cho trẻ em dưới bảy tuổi và chứa nhiều kháng nguyên hơn để xây dựng hệ thống phòng thủ miễn dịch tốt hơn.
  • DT được khuyến cáo cho trẻ em dưới bảy tuổi chống chỉ định tiêm vắc xin ho gà (thường là do đã có phản ứng dị ứng trước đó).
  • TDaP là vắc xin tăng cường được tiêm cho trẻ em trên bảy tuổi và người lớn và cần ít kháng nguyên hơn để tăng cường khả năng bảo vệ.
  • Td là vắc xin tăng cường được tiêm cho thanh thiếu niên và người lớn, những người có thể có nguy cơ mắc bệnh ho gà thấp hơn.

Vắc xin DTaP được bán trên thị trường dưới tên Daptacel và Infarix. Thuốc chủng ngừa TDaP được bán trên thị trường dưới tên Adacel và Boosterix. Trong khi đó, vắc-xin Td được bán dưới tên Tenivac, trong khi vắc-xin DT được cung cấp thông thường.

Ngoài ra còn có các loại vắc xin kết hợp bảo vệ chống lại các bệnh này và các bệnh khác. Chúng bao gồm Kinrix (DTaP và bại liệt), Pediarix (DTaP, bại liệt và viêm gan B), và Pentacel (DTaP, bại liệt, và Haemophilus influenzae loại b).

Lịch tiêm chủng

Vắc xin DTaP được tiêm bắp, tiêm vào cơ đùi ngoài ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ hoặc cơ delta của cánh tay trên ở thanh thiếu niên và người lớn. Số lượng và lịch trình của các liều khác nhau tùy theo độ tuổi và hoàn cảnh của một người:

  • Đối với trẻ sơ sinh, năm mũi tiêm riêng biệt được lên lịch khi hai, bốn và sáu tháng, từ 15 đến 18 tháng và từ bốn đến sáu tuổi. Sau đó nên tiêm một liều tăng cường Tdap khi trẻ từ 11 đến 12. Sau đó có thể tiêm nhắc lại Td sau mỗi 10 năm.
  • Đối với người lớn chưa được chủng ngừa, có thể sử dụng một mũi TDaP duy nhất. Sau đó nên tiêm một mũi Td tăng cường sau mỗi 10 năm.
  • Ngoài ra, phụ nữ mang thai nên tiêm một liều Tdap, tốt nhất là khi thai từ 27 đến 36 tuần.

Phản ứng phụ

Các tác dụng phụ từ vắc xin DTaP có xu hướng nhẹ và có thể bao gồm:

  • Sốt nhẹ
  • Đỏ, sưng, đau nhức hoặc đau ở chỗ tiêm
  • Mệt mỏi

Các triệu chứng có xu hướng phát triển từ một đến ba ngày sau khi tiêm và phổ biến hơn sau khi tiêm lần thứ tư hoặc thứ năm. Sưng thường sẽ hết trong vòng một đến bảy ngày. Ít phổ biến hơn, có thể bị nôn.

Hướng dẫn thảo luận về vắc xin cho bác sĩ

Nhận hướng dẫn có thể in của chúng tôi cho cuộc hẹn tiếp theo của bác sĩ để giúp bạn đặt câu hỏi phù hợp.

tải PDF
  • Chia sẻ
  • Lật
  • E-mail
  • Bản văn