Sự phát triển trong công nghệ stent

Posted on
Tác Giả: Tamara Smith
Ngày Sáng TạO: 24 Tháng MộT 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 17 Có Thể 2024
Anonim
Sự phát triển trong công nghệ stent - ThuốC
Sự phát triển trong công nghệ stent - ThuốC

NộI Dung

Công nghệ đặt stent mới đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Dưới đây là phần sơ lược về các loại stent mới hơn đang được phát triển và lý do tại sao cần cải thiện stent.

Stent được cho là để làm gì?

Mục đích của stent là giúp ngăn ngừa tái hẹp trong động mạch vành (hoặc bất kỳ động mạch nào) sau khi nong động mạch mảng xơ vữa động mạch.

Với phương pháp nong mạch, một ống thông bằng bóng được đưa qua khu vực bị tắc nghẽn trong động mạch, và bóng được bơm căng để nghiền nát mảng bám và giải tỏa tắc nghẽn. Stent là một giá đỡ bằng kim loại được triển khai tại thời điểm bóng bị phồng lên để hỗ trợ cơ học và giúp giữ cho động mạch mới được điều trị mở.

Sự phát triển sớm của công nghệ đặt stent

Khi stent lần đầu tiên được sử dụng, chúng đã thành công trong việc giảm khoảng một nửa nguy cơ tái hẹp sau nong mạch, từ khoảng 20% ​​đến khoảng 10% trong 12 tháng sau thủ thuật. (Hẹp lại, khi nó xảy ra, thường xảy ra trong vòng một năm.)

Trong một nỗ lực để giảm tỷ lệ tái hẹp hơn nữa, các nhà phát triển stent bắt đầu phủ lên stent kim loại trần bằng polyme có chứa thuốc nhằm mục đích ức chế sự phát triển của mô tại vị trí đặt stent. Những stent này được gọi là stent rửa giải thuốc, hoặc DES. (Ngược lại, các loại stent gốc, không phủ thuốc, được gọi là stent kim loại trần, hoặc BMS.) DES đã được phát triển bằng cách sử dụng một số loại thuốc, chủ yếu là paclitaxel, everolimus, hoặc zotarolimus.


DES đã khá thành công trong việc giảm tỷ lệ tái hẹp xuống khoảng 5 - 6% sau một năm. Tuy nhiên, trong vài năm sau khi DES trở thành “tiêu chuẩn vàng” của liệu pháp đặt stent, một vấn đề mới xảy ra với huyết khối muộn nhẹ.

Vấn đề huyết khối muộn

Huyết khối trong stent là sự hình thành cục máu đông bên trong động mạch tại vị trí đặt stent. Huyết khối khác với tái hẹp, là sự tái phát của mô. Hẹp lại chắc chắn là một vấn đề, nhưng ít nhất khi nó xảy ra, nó có xu hướng xảy ra dần dần nên thường phải có thời gian để điều trị. Ngược lại, huyết khối trong stent có xu hướng xảy ra đột ngột, không có dấu hiệu báo trước. Huyết khối trong stent thường dẫn đến tình trạng tắc nghẽn hoàn toàn động mạch và do đó có xu hướng tạo ra nhồi máu cơ tim (đau tim) hoặc đột tử.

Vấn đề huyết khối sớm (cục máu đông xảy ra vài ngày đến vài tuần sau khi đặt stent) đã được phát hiện ngay trong những ngày đầu đặt stent và đã được giải quyết thành công bằng cách điều trị kháng tiểu cầu mạnh trong vài tháng sau khi đặt stent. Với việc sử dụng BMS, cách tiếp cận này dường như là đủ.


Tuy nhiên, trong vòng một vài năm kể từ khi DES được sử dụng rộng rãi, vấn đề huyết khối trong stent muộn đã được phát hiện - tức là huyết khối đột ngột tại vị trí đặt stent xảy ra một hoặc hai năm sau thủ thuật. Huyết khối trong stent muộn cũng thảm khốc như huyết khối trong stent sớm. Để giảm nguy cơ, các bác sĩ tim mạch hiện chỉ định liệu pháp chống kết tập tiểu cầu trong tối đa một năm.

Bởi vì việc sử dụng các loại thuốc chống tiểu cầu mạnh tự nó mang lại nguy cơ, vấn đề huyết khối trong stent muộn đã khiến các nhà phát triển stent phải tìm kiếm một loại stent mới giúp loại bỏ hoặc ít nhất là giảm thiểu vấn đề này.

Công nghệ Stent Mới hơn

Lý thuyết hàng đầu về việc tại sao DES có thể gây ra huyết khối muộn trong stent tập trung vào lớp phủ polymer được sử dụng trên các stent này. Mục đích của lớp phủ polyme là giữ thuốc tại chỗ và giải phóng thuốc dần dần trong khoảng thời gian vài tuần hoặc vài tháng để ức chế sự phát triển và tái tạo mô. Tuy nhiên, khi thuốc đã được phát hành, polyme không phục vụ mục đích nào khác.


Các nhà nghiên cứu hiện tin rằng các lớp phủ polyme trên DES có thể tự làm tăng tình trạng viêm và làm chậm quá trình lành tại vị trí đặt stent, do đó làm tăng nguy cơ huyết khối trong stent. Họ đã thực hiện ba cách tiếp cận chung để giải quyết vấn đề này và một số công ty hiện đang phát triển các loại stent mới sử dụng cả ba cách tiếp cận này.

"Tốt hơn" Polyme bền DES

Những polyme mới này dường như ít gây viêm nhiễm hơn và cho phép chữa lành mô tốt hơn tại vị trí điều trị. Người ta tin rằng chúng làm giảm đáng kể nguy cơ hình thành huyết khối muộn. Những stent này - thường được gọi là “DES thế hệ thứ hai” - hiện đang được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới.

Polyme hấp thụ sinh học

DES (được phát triển và sản xuất ở Mỹ) đã có mặt ở Châu Âu trong vài năm, sử dụng lớp phủ polyme được hấp thụ (biến mất) trong vòng vài tháng, để lại một stent kim loại trần. Nói cách khác, những stent này mang lại những lợi ích của DES trong vài tháng đầu tiên (khi tái hẹp thường xảy ra), và sau đó chúng trở thành BMS, giảm nguy cơ huyết khối muộn. Vào tháng 10 năm 2015, Synergy stent (Boston Scientific) đã trở thành loại stent polymer có khả năng hấp thụ sinh học đầu tiên được phê duyệt ở Mỹ.

Một số nghiên cứu đã được tiến hành so sánh DES polyme hấp thụ sinh học với DES thế hệ thứ nhất và thứ hai. So với DES thế hệ thứ nhất, huyết khối trong stent muộn được giảm thiểu với cả DES thế hệ thứ hai và DES polyme hấp thụ sinh học. Tuy nhiên, tại thời điểm này không có dấu hiệu nào cho thấy DES polyme hấp thụ sinh học hoạt động tốt hơn DES thế hệ thứ hai.

Hơn nữa, ít nhất là cho đến nay, cả DES thế hệ thứ hai và DES polyme mới vẫn cần điều trị kéo dài với thuốc chống tiểu cầu.

Stent hấp thụ sinh học

Stent đang trong quá trình phát triển có thể phân hủy hoàn toàn - nghĩa là toàn bộ stent được tái hấp thu và cuối cùng biến mất hoàn toàn. Người ta tin rằng những lợi ích do đặt stent mang lại (hiệu ứng giá đỡ) không còn cần thiết từ 9 đến 12 tháng sau khi thủ thuật - stent không còn phục vụ mục đích gì nữa. Vậy tại sao không làm cho nó biến mất? Một số phiên bản của stent hấp thụ sinh học đã được phát triển và đang trong quá trình thử nghiệm lâm sàng tích cực.

Kết luận

Tất cả những kỹ thuật tuyệt vời mà chúng ta thấy đang diễn ra ngày nay trong công nghệ đặt stent chắc chắn là rất ấn tượng, và có vẻ như sớm hay muộn sẽ có các loại stent giúp loại bỏ cả tái hẹp và huyết khối. Nhưng chúng ta nên giữ một vài điều trong quan điểm.

Đầu tiên, tất cả các hoạt động này và tất cả những khoản đầu tư này vào công nghệ đặt stent đều nhằm giải quyết hai vấn đề (tái hẹp và huyết khối trong stent) do chúng tôi cố gắng điều trị bệnh mạch vành (CAD) bằng nong mạch và đặt stent. Nếu ngay từ đầu chúng tôi không “cần” thực hiện loại thủ tục này, thì loại nỗ lực hoành tráng này sẽ không cần thiết.

Và thứ hai, trong khi các bác sĩ tim mạch đã rất nhanh chóng đề nghị điều trị xâm lấn cho CAD, chúng ta nên nhớ rằng stent thực sự không được chứng minh là làm giảm đáng kể nguy cơ đau tim hoặc tử vong ở hầu hết bệnh nhân CAD ổn định. Trước khi đồng ý đặt stent, bạn cần nói chuyện với bác sĩ về việc liệu một chiếc stent sẽ thực sự hữu ích cho tương lai của bạn hay thay vào đó là liệu bạn có chỉ đơn thuần là thêm một vấn đề quản lý mãn tính mới vào cái bạn đã có hay không.

  • Chia sẻ
  • Lật
  • E-mail
  • Bản văn